Thứ Tư, 11 tháng 2, 2009
MÌ CHÍNH - KẺ THÙ NGỌT NGÀO
Cách đây hàng ngàn năm khi người Nhật bắt đầu dùng rong biển làm thực phẩm, họ phát hiện ra loại rong lá (có tên khoa học Laminaria japonica) còn là một loại gia vị hảo hạng. Vào thời ấy, hoạt chất của loại rong lá làm cho thức ăn có hương vị đậm đà (do acid glutamic) chưa được nhận diện.
Vào năm 1980, nhà bác học Rittenhausen ở Humburg (Đức) đang tìm kiếm để xác định cơ cấu của các protêin động vật, đặc biệt là acid amin kể cả acid glutamic. Họ là các nhà khoa học thuần tuý, cố gắng nhận ra các đặc tính hoá học của các protein khác nhau. Tuy nhiên, công trình của họ trở nên thiết yếu cho Kikunae Ikeda nhận diện được hoạt chất của rong biển làm cho thức ăn thêm có vị và việc sản xuất hoạt chất đó.
Ikeda là một thanh niên Đông Kinh, theo học Viện đại học Đông Kinh và tốt nghiệp khoa hoá vào năm 1889. Sau một thời gian ngắn dạy trung học, ikeda qua Đức tu nghiệp và có quan hệ với WOff trong nghiên cứu hoá học về protein acid glutamic được tổng hợp trong suốt nhiều năm tập sự.
Trở về quê hương, Ikeda làm việc cho khoa hoá của Viện Đại học Hoàng gia Đông Kinh. Vào năm 1908, khi trở nên thành viên thực thụ của giáo sư đoàn, ông bắt đầu nghiên cứu loại rong biển mà vợ ông vẫn dùng để làm cho món xúp thêm ngon,, và chẳng bao lâu ông nhận diện được hai thứ hoạt chất làm cho thức ăn có vị đậm đà đó.
Ông khám phá ra thứ hoạt chất trích từ loại rong biển ngon ngọt kia có những đặc tính của acid glutamic, và hoạt chất đó là monosodium glutamate, một muối của acid glutamic. Phát hiện của ông mang nhãn hiệu trình toà của Anh với Paten số 9440 – nhan đề “sản xuất chất liệu gây vị” ngày 21 tháng 4 năm 1909.
Kikunae Ikeda biết mình đang nắm trong tay bí quyết có nhiều áp dụng thực tiễn. Trong lúc giảng dạy tại Viện đại học Hoàng gia, ông vẫn nộp hồ sơ để có được những patent bảo đảm quyền sáng chế của mình trên các quy trình công nghiệp mang tính thương mại, trước là dùng protein của lúa mì phân rã về sau dùng protein đậu nành.
Vào năm 1909, ông kết hợp với một nhà kinh doanh có khiếu làm ăn tên là Saburosuke Suzuki – nguyên là một dược sĩ - thuyết phục ông này rằng họ sắp phất lớn nhờ cung cấp cho thế giới một chất mới tạo vị. Họ chọn từ “Aji – no – moto” làm tên cho sản phẩm trình toà của mình và về sau nó trở thành tên của công ty có trách nhiệm triển khai sản xuất và phân phối bột ngọt trên toàn thế giới. “Aji” có nghĩa là nguồn gốc, sự khởi phát, hay cơ bản; còn “moto” có nghĩa là vị hay hương vị. Vì vậy Aji – no – moto theo từng từ có nghĩa là “Ngay tại nguồn gốc của hương vị”.
Đến năm 1933 sản xuất bột ngọt tại Nhật Bản đạt đến 4 triệu rưỡi kilogram hàng năm, và bột ngọt trở thành món gia vị quan trọng hàng đầu ở Đông phương. Ngày nay Aji – no – moto cung cấp hơn phân nửa nhu cầu bột ngọt trên toàn thế giới.
Vào thời kỳ trứng nước của ngành sản xuất bột ngọt thế độc quyền Aji–no–moto chỉ bị thách thức có một lần. Trung Hoa bắt đầu sản xuất bột ngọt những năm 1920, đến năm 1930 sản lượng hàng năm là 200.000 kilôgam. Vào giữa những năm 1930, Trung Hoa là mối đe doạ nghiêm trọng trong việc cạnh tranh thị trường bột ngọt với hai loại bột ngọt mang nhãn hiệu Ve-tsin. Thế nhưng khi chiếm đóng các tỉnh ven duyên hải, Nhật đã dẹp các nhà máy không cho làm bột ngọt nữa.
Mặc dù cố gắng rất nhiều từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Aji – no – moto vẫn khó thâm nhập vào Hoa Kỳ. Câu chuyện Aji – no – moto đến Mỹ không gây mấy ảnh hưởng và nhân vật kích cho nó được triển khai bị đi vào lãng quên.
Vào năm 1925, James E. Larrowe và Công ty Larrowe Milling tiếp xúc với Công ty gia vị Suzuki yêu cầu giúp đỡ xử lý “nước thải” trong quy trình làm đường củ cải sao cho có lợi vì nước thải có chứa acid glutamic với hàm lượng đáng kể. Người ta gọi loại này là “nước thải của ông Stephen” theo tên của nhà khoa học đã triển khai quy trình xử lý. Vào năm 1925, Hoa Kỳ hay chính xác hơn Công ty Larrowe Milling thặng dư chất này sau Đệ nhất Thế Chiến.
Lúc ấy Hoa Kỳ bị cạn nguồn potash (của Đức) để làm phân bón và việc rút các muối kali (potassium) từ nước thải trở nên nguồn lợi hấp dẫn. Nhiều nhà máy chế biến củ cải đường chuyển qua nhà máy potash vì giá potash quá hấp dẫn: 400 Mỹ kim một tấn. Nhưng vào năm 1918, khi cuộc chiến chấm dứt, giá potash hạ xuống đến chóng mặt cho nên Công ty Larrowe bị ứ đọng hàng ngàn tấn “nước thải của ông Stephen” chứa trong các bồn lớn ở thành phố Mason City (bang Lowa). Larrowe đã mở rộng việc sản xuất potash hy vọng đáp ứng nhu cầu về potash và giờ đây bị kẹt vốn nặng nề. Ông phải tìm cho ra cách sử dụng loại nước thải này.
Bột ngọt làm bằng nước thải – phát hiện Hoa Kỳ
Bột ngọt hay mì chính, là thứ gia vị phổ biến đến nỗi làm món ăn gì người ta cũng nêm nó cả. Tệ hại hơn nữa, gian thương còn trộn thêm chất độn - kể cả những chất độc hại – hòng trục lợi mặc dù bản thân bột ngọt cũng đủ có hại cho sức khoẻ của chúng ta rồi.
Sử dụng nước thải bằng mọi cách - kể cả dùng nó làm chất chống băng giá cho xe hơi đã gặp thảm bại. Trong khi tuyệt vọng, Larrowe đến Viện nghiên cứu Công nghệ Mellon ở thành phố Píttburg, bang Pennsylvania, và trình bày nỗi khổ của mình. Ấy là vào năm 1923, nước thải đã chờ đợi suốt năm ròng. Vốn lên đến hàng triệu Mỹ kim bị giam, còn nước thải thì dường như là loại nguyên liệu chỉ đợi vứt đi.
Sau khi suýt làm hư chiếc xe mới toanh hiệu Packard của mình, Larrowe muốn Viện nghiên cứu Công nghệ xác định tại sao không thể dùng nước thải làm chất chống đóng băng giá. Tiến sĩ Đonald Tressler, một nhà khoa học trẻ được cấp một học bổng nhằm phân tích và tìm ra cách sử dụng nước thải có hàm lượng lượng acid glutamic cao này. Sau khi hỏi ý kiến của thầy mình là Giáo sư Elmer Mc Collum, một nhà khoa học nổi tiếng về sinh tố tại Viện Đại học John Hopkins, ông khuyên Larrowe nên bỏ việc dùng nước thải để làm chất chống đóng băng giá mà nên tiến hành việc dùng nó để làm bột ngọt.
Larrowe tiếp xúc với Suzuki và Ikeda đề nghị họ nên mua loại nước thải giàu acid glutamic của mình. Năm 1926, Tiến sĩ Ikeda, Suzuki và con trai rời Nhật Bản, vất vả tìm đường qua thành phố Mason (bang Lowa)
Đoàn của Công ty cho rằng họ có thể sản xuất bột ngọt và bán nó ở Phương Đông và Hoa Kỳ qua Công ty Larrowe – Suzuki. Về mặt kinh tài mà nói, vụ hợp tác này là một thảm họa đối với Larrowe, nhưng ông vẫn quyết tâm làm cho được bột ngọt từ loại nước thải của mình.
Tiến sĩ Ikeda qua đời vào năm 1931, năm năm sau Suzuki cũng quy tiên, việc làm ăn giữa Larrowe và Suzuki chấm dứt. Lúc ấy Larrowe đã vào tuổi thất tuần, sức khoẻ kém mà vẫn chưa sử dụng được nước thải của mình cho có lợi dù đã rót vốn rất nhiều vào rồi. Tiến sĩ Albert Marshall là cố tri của Larrowe, vô cùng khâm phục quyết tâm của bạn. Quả vậy, theo Marshall chỉ có dùng lời của Shakespeare mới diễn tả nổi con người của Larrowe: “Những gì ta mưu cầu, ta sẽ đạt được và đó là một cứu cánh”.
Dù có sanh lợi hay không, cuối cùng rồi Larrowe cũng tìm ra cách sử dụng loại nước thải của mình: sản xuất bột ngọt. Công ty của ông, Amino Products, chung cuộc lại về tay Công ty International Mineral and Chemicals (Công ty khoáng và hoá chất quốc tế).
Dù được sản xuất ở Hoa Kỳ, bột ngọt vẫn không được chấp nhận làm gia vị cho thức ăn của người Mỹ. Trớ trêu thay, vào Đệ nhị Thế chiến, binh lính Mỹ quan tâm đến việc Nhật Bản dùng bột ngọt trong khẩu phần ăn của lính Nhật. Sau cuộc chiến, có một hội nghị bàn về việc sử dụng bột ngọt, đặc biệt là để làm những thực phẩm dùng trong cuộc hành quân cũng như cho ngành công nghệ thực phẩm đông lạnh ở vào thời kỳ trứng nước.
Vào năm 1948, cuộc hội thảo đầu tiên về bí ẩn của bột ngọt được tổ chức tại khách sạn Stevens ở Chicago và được Chỉ huy trưởng Cục hậu cần chủ trì. Muốn hiểu ra niềm phấn khởi phát sinh từ cuộc họp này, chúng ta hãy quay vè dĩ vãng. Năm 1948...
Hãy tưởng tượng bạn là một thành viên có tầm cỡ trong nền công nghiệp thực phẩm được mời đến Chicago vào năm 1948 để nghe về điều kỳ diệu của một loại gia vị: một bí quyết làm cho thức ăn của quân đội Nhật bản ngon hơn. Vừa bước vào phòng họp, bạn được Franklin Dove - Trưởng ban thực phẩm và đóng gói thuộc Cục hậu cần, một nhà thông thái – đón tiếp. Rồi lại được Giám đốc Viện hậu cần vồn vã cho biết ông cũng mong đợi sự kiện này mà lòng tràn trề hy vọng. Ông nói: “Tôi rất tò mò về cái chất kỳ lạ này”. Nhìn quanh, bạn nhận ra toàn những khuôn mặt lớn, có vai vế lãnh đạo ngành công nghiệp thực phẩm, chế biến thực phẩm và phân phối trên toàn nước Mỹ.
Cuộc họp này đánh dấu một cuộc cách mạng Hoa Kỳ trong thực phẩm, một sự kiện kéo dài trong tám tiếng đồng hồ có hậu quả liên hệ đến triệu triệu con người qua một thời gian rất dài.
Nhìn khắp đại sảnh, bạn thấy ai nấy đều chăm chú hăng say ghi ghi chép chép trong khi từng diễn giả đưa ra các bài tham luận không tiếc lời ca tụng loại bột ngọt thần diệu này, không khí phấn khởi bao trùm lên phòng họp. Bột ngọt đã được đăng quanh. Nền công nghiệp thực phẩm bột ngọt của Hoa Kỳ cất cánh đi vào hoạt động. Và nếu những phát hiện tuyệt vời nêu trên chưa đủ thì những lời phát biểu của diễn giả cuối cùng chả khác gì một lớp kem ngon lành phủ lên trên chiếc bánh tuyệt hảo.
Tiến sĩ Carl Pfeiffer thuộc trường Y của Viện Đại học Illinois là một bậc thầy nổi tiếng trong ngành Y dã dành thì giờ đến dự buổi họp này và thông báo rằng nay các nhà khoa học đang bắt đầu thử nghiệm để xem bột ngọt có tác dụng trong việc nâng cao chỉ số trí tuệ thông minh của các người có trí tuệ chậm lụt. Thật ra thì những ai tham dự hội nghị chẳng cần được động viên hơn nữa, thế nhưng thông tin mới này chả khác nào thứ động cơ có sức đẩy mãnh liệt.
Còn nền công nghiệp thực phẩm chẳng mảy may nghĩ đến mặt đen tối, xấu xa của loại bột nêm thần diệu này mà hậu quả là gây ra hội chứng bột ngọt.
II. TÁC HẠI CỦA MÌ CHÍNH ĐỐI VỚI CƠ THỂ.
1.Lời bạt cho một cuốn sách
Tiến sĩ Y khoa Arthur D.Colman là Giáo sư lâm sàng khoa Tâm thần thuộc Trung tâm Y khoa của Viện Đại học Califonia đã viết lời bạt được trích dịch dưới đây cho một cuốn sách nói về hội chứng bột ngọt đồng thời giúp bạn tự chủ cuộc sống của mình.
Bột ngọt (còn được gọi là mì chính) có nguy hiểm cho sức khoẻ bạn không? Và nếu cơ thể của bạn bị mẫn cảm với bột ngọt, không chịu nổi bột ngọt, bạn cần phải làm những gì để loại bỏ bột ngọt, loại bỏ những thực phẩm có dùng bột ngọt ra khỏi những món ăn, thức uống của mình? Cuốn sách này sẽ trình bày đầy đủ những dữ kiện về lịch sử, khoa học, lâm sàng, và dinh dưỡng để cho bạn tự quyết định trước những mối nguy hiểm tiềm tàng của bột ngọt đối với bạn và con cái của mình.
Đây là cuốn sách đầu tiên thuộc loại này được xuất bản vừa nhằm vào độc giả mà nghề nghiệp có liên quan đến bột ngọt vừa nhằm vào quần chúng rộng rãi: Bởi vì ước tính có đến 25% dân chúng mà cơ thể có phản ứng nguy hại đối với bột ngọt. Trong số nạn nhân, có nhiều người bị bệnh vì không biết rằng ăn đồ hộp có bột ngọt, dù ít đi nữa – món ăn bày bán tại các quầy hàng – là nguyên nhân của bệnh tật, thậm chí đe doạ tính mang của thực khách. Những nạn nhân này không biết rằng từ 20 năm nay các bác sĩ, nhà khoa học đã cho xuất bản các công trình nghiên cứu nghiêm túc về đề tài này rồi. Ngày nay, các bài báo vẫn tiếp tục xuất hiện trên những tạp chí khoa học có uy tín, có số phát hành cao đề cập chi tiết đến tính độc hại của bột ngọt. Tuy nhiên vẫn còn thiếu những thông tin cần thiết mang tính giáo dục để cho quần chúng rộng rãi tự mình nhận định về những tác động của bột ngọt.
Tôi (Tiến sĩ Arthur D.Colman) ngày càng quan tâm đến biết bao nhiêu thân chủ cùng đồng nghiệp của mình bị nhức đầu, có các triệu chứng đường ruột, trầm cảm, buồn bực và mặt bừng bừng. Vào năm 1978, bài viết chi tiết của tôi về hai ca bệnh: mỗi lần ăn uống thứ gì có bột ngọt là cả hai thân chủ của tôi có những triệu chứng trên cơ thể và cả tâm thần rất rõ - kể cả trầm cảm buồn bực đến ủ dột. Bài viết này được đăng trên tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi (New England Jounal of Medicine, gọi tắt là TCYH)(*)
Các triệu chứng tâm thần đặc biệt khó lường bởi những dấu hiệu này chỉ lộ ra hai ngày (48 giờ) sau khi ăn uống thứ có chứa bột ngọt và có khi kéo dài suốt nhiều tuần lễ. Nhưng khi thức ăn của họ không có bột ngọt thì các triệu chứng đó không xuất hiện. Một thân chủ của tôi là một cậu bé gặp muôn ngàn khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày ở nhà cũng như ở trường: tình trạng u ám như vậy kéo dài suốt bao nhiêu năm do thức ăn em dùng có chứa bột ngọt. Sau khi loại bỏ hoàn toàn bột ngọt ra khỏi thức ăn của em này, thì tính khí của em trở nên ngoan cường đến cả cô giáo dạy em, lẫn bác sĩ tâm thần trị bệnh cho em đều ngẩn người ra vì kinh ngạc. Họ hỏi bố mẹ của em đã làm gì, thay đổi những gì! Mười năm sau, cậu bé ngày xưa bị xếp vào hạng “Ngổ ngáo và bướng bỉnh” thì ngày nay là sinh viên danh dự của khoa hoá Viện Đại học Califonia ở Berkeley.
Bài báo đăng trên TCYH tức khắc tạo ra tiếng vang trong quần chúng và được các phương tiện thông tin đại chúng - nhất là báo chí – quan tâm. Tôi đã đọc lại hàng trăm lá thư của bác sĩ, của các nhà chuyên môn gửi đến cho biết các kinh nghiệm lâm sàng của riêng họ cùng thư từ của các nạn nhân bột ngọt kể lể những nỗi khổ đâu mà họ phải chịu đựng.
Một tờ báo tiếng Nhật hàng đầu ở một thành phố lớn ở Miền Tây tuy đã dự kiến lên một chương trình phỏng vấn tôi, nhưng đã huỷ bỏ cuộc phỏng vấn vì bị đe doạ mất tiền quảng cáo từ các nhà sản xuất thực phẩm. TCYH này cũng nhận được một lá thư giọng đầy hằn học của Hiệp hội bột ngọt, một tổ chức quốc tế chi hầng triệu Mỹ kim tại hậu trường chính trị, còn nói rằng họ thất vọng và lo lắng khi tạp chí đã in bài của tôi, đề nghị rằng tạp chí này nên đưa ra một chính sách rõ ràng làm tiêu chuẩn cho việc xuất bản.
Chiến dịch chống lại bài viết dài vỏn vẹn có ba đoạn của tôi vẫn chưa ngừng tại đây. TCYH còn nhận được một lá thư từ một nhà nghiên cứu chất vấn về những phát hiện lâm sàng của tôi. Ban biên tập dành cho tôi điều kiện để phản bác ngay trên tạp chí. Đối với tôi, đây là một việc đơn giản: ngay trong lá thư của nhà nghiên cứu này có nhiều lời quảng cáo hơn là các nội dung khoa học.
Cuối cùng, những lá thư như vậy không còn được gởi đến toà soạn nữa. Điều đó không có nghĩa là tôi không gặp rắc rối: một đồng môn Harvard của tôi mà có hơn mười năm nay không gặp bỗng dưng xuất hiện ở San Franciosco. Chúng tôi gặp nhau cùng ăn sáng và câu chuyên hàn huyên nhanh chóng chuyển hướng về công trình của tôi nghiên cứu bột ngọt gây hội chứng tâm thần.
Thoạt tiên, anh bạn của tôi nói với vẻ xem thường các phát minh của tôi, rồi đề nghị tài trợ cho tôi nghiên cứu “các hiện tượng mẫn cảm” khác thay vì hội chứng tâm thần do bột ngọt. Tôi cảm thấy thất vọng, không phải vì bạn tôi xem thường công trình lâm sàng của mình mà vì động cơ thúc đẩy anh ta làm như vậy.
Sau khi bị tôi cật vấn về lòng tốt khác thường của anh, anh thú nhận là Tổ chức bột ngọt mướn anh làm tham vấn. Anh ta giận dữ thật sự khi tôi nói thẳng rằng anh là một “con rối”, từ đấy đến nay tôi không còn nghe tăm hơi gì của người bạn đồng môn Harvard của mình nữa!
Rõ ràng có một ngành công nghiệp cần bảo vệ tiếng tốt cho bột ngọt. Tuy nhiên dù đã tiêu hàng đống tiền cho quảng cáo và gaio tế nhân sự nhằm ca tụng bột ngọt là loại gia vị có tác dụng “tự nhiên”, nhưng nỗi hoang mang đối với bột ngọt ngày càng tăng.
Trong lúc khám bệnh, tôi vẫn đặt thành nếp: nghi ngờ có độc tính của bột ngọt mỗi khi có sự kết hợp giữa các triệu chứng đường ruột, thần kinh và trầm cảm. Đôi khi tôi giúp được cho bệnh nhân của mình khỏi phải chịu đau đớn và tốn kém. Tôi biết các bác sĩ nhi khoa hỏi bố mẹ của các cháu mắc bệnh (bệnh nhi) là thức ăn của các cháu có chứa bột ngọt không. Có bác sĩ còn dùng liều bột ngọt thử cho bệnhnhân để loại bỏ hoặc xác nhận nỗi nghi ngờ của mình. Những cố gắng như vậy dễ bị trắc trở vì mục tiêu quá rộng, đó là: “dị ứng thực phẩm” hơn là các độc tính đặc thù. Điều quan trọng là với liều đủ mạnh thì bột ngọt là chất độc với mọi người. Còn đối với những người không có khả năng biến dưỡng nó, bột ngọt trở thành thứ thuốc độc.
Tiếc thay trong hoàn cảnh hiện nay bỏ bột ngọt không dễ dàng gì. Ngay cả khi bố hay mẹ của người bệnh hay chính người tiêu thụ có học vị tiến sĩ dinh dưỡng đi chăng nữa cũng khó có khả năng loại bỏ hoàn toàn bột ngọt!
Chính vì vậy, cuốn sách này rất có giá trị. Nếu bạn, hay người bạn quen biết là nạn nhân của bột ngọt, thì cuốn sách này có thể thay đổi cuộc đời của mình: điều đó không hải là lời nói ngoa đâu.
2.Bột ngọt – mì chính – món gia vị hiện đại giết người dần dần.
Sau muối và tiêu, đây là thứ gia vị xếp hàng thứ ba và là thứ gia vị của thời đại chúng ta. Ở Mỹ nó được gọi là Monosodium glutamate, ở Nhật là Aji – no – moto, ở Việt Nam nó là bột ngọt, là mì chính, và còn mang nhiều tên gọi khác nhau ở quốc gia trên thế giới này.
Bột ngọt lần đầu tiên được triển khai tại phòng thí nghiệm của Kikunae Ikeda nguyên được phân lập từ rong biển để làm cho vị của món ăn thêm đậm đà. Tiến sĩ Ikeda nào có ngờ công trình của ông, nhằm nhận diện thứ hoạt chất trong rong biển mà các đầu bếp Nhật Bản đã sử dụng hàng ngàn năm nay, lại mở đường cho một ngành công nghiệp có khoản thu nhập lên hàng tỷ Mỹ kim trong thế kỷ XX này.
Không bao lâu sau khi phân lập được bột ngọt, Kikunae Ikeda trở thành người hùn vốn trong một cơ ngơi sau này biến thành công ty Aji – no – moto (có nghĩa: bản chất của vị). Sự thật là trên toàn thể các nước phương Đông, ai cũng biết là Aji–no -moto có nghĩa là bột ngọt, và trở thành tên gọi gần gũi dễ hiểu. Và để ghi công cho Tiến sĩ Ikeda, thứ bột nguyên gốc của ông phân lập hiện nay được đóng vào khuôn giữ tại một đài kỷ niệm tại Viện Đại học Đông Kinh.
Ngày nay bột ngọt được dùng trong các thực phẩm được chế biến, các thức ăn liền và các món ăn của người Hoa có các vị đặc biệt. Được tìm thấy trong hầu hết các loại súp, nước sốt và các protein thực vật thuỷ giải (*), bột ngọt trở nên là thứ nguyên liệu thô cho nền công nghiệp thực phẩm hiện đại.
Vậy sao chúng ta lại lo lắng về cái chất làm cho các thứ thực phẩm nhạt nhẽo thêm đậm đà, làm mất các mùi khó ưa của đồ hộp và kích thích các gai vị giác mệt mỏi của chúng ta? Tại sao lại có người muốn thách thức những đặc tính có vẻ lợi của bột ngọt?
Câu trả lời: bột ngọt đơn giản là mọt chất độc với nhiều người mẫn cảm đối với các tác dụng của nó.
Các phản ứng của cơ thể đối với bột ngọt là từ nhẹ đến rất nặng. Quả thật vậy, qua bài đầu tiên được đăng trên New England Journal of Medicine (Tạp chí Y học vùng Tân Anh Cát Lợi) vào năm 1968, Bác sĩ Ho Man Kwok tường trình các triệu chứng tương đối nhẹ như nhức đầu, da bừng bừng. Tuy nhiên, càng về sau này các công trình nghiên cứu tích luỹ nhiều tư liệu cho thấy bột ngọt gây ra những hậu quả tai hại hơn và kéo dài hơn như bệnh suyễn, nhức đầu như búa bổ và các tai biến về tim đe doạ tính mạng. Các loại triệu chứng khác thoạt nhìn có vẻ do tâm thần nhưng rà soát lại thì do dùng bột ngọt: tính khí thất thường một cách quá đáng, dễ nóng giận, trầm cảm, thậm chí cảm thấy mình bị thù ghét.
Nhiều ca bệnh trầm trọng vì bột ngọt đã được các bác sĩ đúc kết thành tài liệu và ngày càng có nhiều bài xuất hiện trong y văn mà các chuyên gia có thể dùng để nghiên cứu, tham khảo. Tuy nhiên đại đa số những người bị mẫn cảm đối với bột ngọt lại không biết rằng những khổ sở khó khăn trong đời của mình rất có thể là do bột ngọt gây ra: họ đi khám bác sĩ mà vẫn không thấy khỏi, bác sĩ không sao giải thích được những lời than vãn của thân chủ nổi giận dữ và buồn bực do bột ngọt gây ra, thậm chí dẫn tới nguy cơ tự vẫn nếu không tìm ra được nguyên nhân do đâu mà có những rối loạn tâm thần như vậy.
Một công trình nghiên cứu qua bản trả lời những câu hỏi đặt ra (được công bố vào tháng 4 năm 1977) cho thấy rất đông mẫu chọn do Tiến sĩ Liane Reif – Lenrer cho thấy có 30% người lớn và có từ 10 đến 20% trẻ em có phản ứng đối với thức ăn có chứa bột ngọt. Như vậy có nghĩa là hiện nay có hàng triệu sinh mạng đang bị đe doạ vì bột ngọt.
Bột ngọt được tìm thấy hầu hết trong các thức ăn liền trên quy mô cả nước. Những loại thức ăn liền này lại được trẻ em và thanh thiếu niên rất ưa chuộng, có thể trở thành “chất độc màu xanh” - một cụm từ mà các nhà nghiên cứu thuộc Viện Sức khoẻ Tâm thần Quốc gia dùng để giải thích cho nguyên nhân gia tăng hội chứng trầm cảm trong số trẻ em và lứa tuổi niên thiếu. Những triệu chứng về thể chất và phong thái của trẻ em – như những cơn động kinh và mất khả năng tự chủ được định bệnh và chữa khỏi khi chúng được xem như là phản ứng đối với bột ngọt.
Vào cuối thập niên 60, bột ngọt bị loại bỏ khỏi thức ăn cho trẻ con. TS Jean Mayer, một nhà khoa học thực phẩm hàng đầu thuộc Viện Đại học Harvard đã tuyên bố trong buổi họp phụ nữ tại Câu lạc bộ báo chí Quốc gia rằng: “Dù có cảm thấy hơi áy náy vì chưa có đủ bằng chứng nhưng tôi vẫn mong loại bỏ hẳn cái thứ trời đánh này (bột ngọt) ra khỏi thức ăn trẻ con”. Ngay tức khắc các nhà sản xuất thực phẩm Gerber Heinz và Beechnut tuyên bố không dùng bột ngọt trong việc chế biến thức ăn cho trẻ con nữa. Thế nhưng các cháu vẫn dùng bột ngọt qua các món ăn thường được gia đình nấu nướng.
Các sự kiện khoa học thu thập được từ các ca bệnh cần được quảng đại quần chúng quan tâm, chú y. Riêng ở Mỹ có ít ra là 20 triệu người và trên thế giới có ít ra là 100 triệu người có phản ứng đối với bột ngọt. Điều này có nghĩa rằng trong khi có người dùng bột ngọt mà không bị tác hại thì nhiều người lại bị thương tổn về mặt thể chất và tâm thần khi dùng bột ngọt làm gia vị mà không hề hay biết rằng đối với họ, bột ngọt có những tác động của một loại thuốc mạnh. Cuốn sách “Dở - hội chứng bột ngọt” là câu chuyện về những tác động tai hịa của bột ngọt đối với sức khoẻ và sự an lành của họ. Sách trình bày chi tiết những công trình của các nhà khoa học hiến trọn đời mình để khuyến cáo đừng dùng bột ngọt nữa. Cuốn sách còn đề cập đến một nền kinh tế liên hệ phụ thuộc vào việc sản xuất và tiêu thụ bột ngọt, và các nhà tâm lý học, các bác sĩ, các bệnh viện, trường học và luật sư liên hệ với nhau như thế nào trong vấn đề này do tác động sâu rộng của bột ngọt.
Các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cũng như trên hiện trường đều cho thấy một hình ảnh bất biến: 30% dân số có những triệu chứng khó chịu khi dùng bột ngọt theo liều lượng như được dùng để nêm nếm thức ăn. Những dữ kiện lâm sàng cho thấy rằng đối với một số người những triệu chứng không thuộc loại nhẹ hay chóng qua mà thuộc loại nặng và nguy hiểm, và rất có thể - dù không phải khi nào cũng vậy - dẫn đến những chứng bệnh mãn tính hoặc gây thương tổn vĩnh viễn. Ngày cnàg có nhiều người bị nguy hại do việc sử dụng bột ngọt ngày càng tăng. Hiện tượng không chịu được bột ngọt không phải là phản ứng quá mẫn cảm – nhưng đúng là một tác động do thuốc. Một liều đủ cao có khả năng gây bệnh cho bất cứ ai, và có nhiều người hơn nữa đang tiến dần tới cái liều nguy hại đó – nghĩa là khi có đủ lượng thì triệu chứng bệnh lộ ra – do tiêu thụ bột ngọt. Hội chứng bột ngọt không còn là thứ phản ứng khó tiêu của cơ thể đối với các món ăn Tàu.
Những ai có phản ứng với bột ngọt, trước hết phải nhận ra cho rõ các phản ứng đó của mình, và rồi học cách ăn không có bột ngọt.
Những ai không chịu được bột ngọt mà có những phản ứng mạnh mẽ thường phải chịu khổ sở liên miên với các triệu chứng tâm lý và sinh lý. Biết né tránh không dùng bột ngọt có khả năng thay đổi cục diện rất tốt đẹp.
3.Hội chứng bột ngọt – dâu có phải chuyện đùa!
Thoạt tiên khi đọc bài của Bác sĩ Ho Man Kwok viết trên tạp chí Y học (TCYH) miền Tân Anh Cát Lợi (New England Journal of Medicine) vào năm 1968 tường thuật phản ứng cơ thể đối với bột ngọt, nhiều người tưởng lầm chuyện đùa mà thôi. Ông viết: “Hội chứng này thường bắt đầu sau khi dùng món ăn đầu tiên chừng 15 đến 20 phút, kéo dài 2 tiếng đồng hô và không để lại dư chứng gì. Những triệu chứng rõ nét nhất là cảm thấy tê tê sau gáy, và cảm giác đó lan dần xuống hai cánh tay rồi lan xuống lưng, mệt mỏi toàn thân và hồi hộp”. Qua thư bạn đọc gởi cho toà soạn, có độc giả yêu cầu: nếu là người thật việc thật thì Ho Man Kwok hãy ra mặt và thú nhận là ông đã đùa dai. Thế nhưng không những Bác sĩ Ho Man Kwok là con người bằng xương bằng thịt mà triệu chứng bệnh của ông cũng rất cụ thể và rõ ràng.
Vào năm 1969, Bác sĩ Herbert Schaumberg thuộc Đại học Y Albert Einstein bắt đầu một cuộc nghiên cứu khoa học tỉ mỉ về hậu quả của bột ngọt, và ông viết: “dù muốn làm bớt đi nỗi lo sợ khủng khiếp và ngăn chặn việc làm cho các chủ tiệm ăn của người Hoa khỏi bị sụp đổ, chúng tôi buộc phải trưng ra những điều cần thông bào về nguồn gốc của bệnh, tâm lý bệnh học và dược lý học lâm sàng về hội chứng do dùng món ăn của người Hoa (đúng là những món ăn nêm bột ngọt).
Và Bác sĩ Schaumberg cám ơn vô số nạn nhân đã gọi điện thoại cho ông vào những lúc khuya khoắt để tường thuật trường hợp lâm bệnh của mình.
Vào ngày mùng 1 tháng 8 năm 1969, Franz Ingel finger, Tổng biên tập của TCYH viết: “Dù được đặt tên gì cho hay nhất đi nữa thì phản ứng với bệnh nhân Kwok được miêu tả trong số báo ra ngày 16 tháng 5 của chúng tôi đã vén bức màn che khuất biết bao nạn nhân chịu khổ đau thầm lặng. Rõ ràng là rất nhiều người phải ngồi chịu đựng dằn vặt mà không dám hé môi, mỗi nạn nhân đều nghĩ chỉ có mình là bị đoạ đày chớ không bao giờ nghĩ rằng chính người bạn cùng mâm ra vẻ hồ hởi thưởng thức món súp yến sào cũng là người “đồng hội đồng thuyền” đang ngắc ngoải. Ngay cả vợ chống cũng muốn tránh cho nhau cái nghịch cảnh này”.
Thế nhưng thật là nực cười biết bao? Sau khi Bác sĩ Herberg Schaumberg và các cộng sự của ông điều tra kỹ hơn, họ đã nhận ra các triệu chứng do dùng bột ngọt như nóng bỏng, mặt nặng, đau ngực và nhức đầu. Họ khám phá ra rằng một chén súp (khoảng 20ml) cũng đủ làm cho những người nhạy cảm với bột ngọt có những triệu chứng bệnh đó rồi.
Khi 56 người bình thường có tuổi từ 21 đến 67 được thử nghiệm (30 đàn ông; 26 đàn bà), thì 55 người đều có triệu chứng của hội chứng bột ngọt xuất hiện ngoại trừ một người. Nhưng người này có triệu chứng khi có được tiêm bột ngọt vào tĩnh mạch.
Công trình nghiên cứu của Schaumberg phát hiện, một triệu chứng nặng là tức ngực lan khắp và có khi còn lan tới cánh tay hay cổ nữa. Cái cảm giác đáng ngại này đã khiến cho một người trong nhóm là một bác sĩ phải làm điện tâm đồ vì nghĩ rằng triệu chứng này là do cơn đau tim.
Qua bài viết đăng trong tạp chí Science (tạp chí khoa học) - tạp chí chính thức của Hàn lâm viện khoa học Hoa Kỳ - vào năm 1969, Bác sĩ Schaumberg trịnh trọng kết luận “bột ngọt gây ra các tác động bất lợi dù với lượng vẫn được nêm nếm các thức ăn thường dùng”.
Tám năm sau, Tiến sĩ Liane Reif-Lehrer, một nhà nghiên cứu thành danh trường Y thuộc Viện Đại học Harvard, thực hiện một cuộc thăm dò và nghiên cứu phản ứng đối với bột ngọt. Trong số 1529 người trả lời một loạt các câu hỏi thì 30% cho biết có những triệu chứng như chóng mặt, buồn nôn, đau bụng, mờ mắt, mệt mỏi, hụt hơi và sức yếu (Federtation Proceeding, tháng 4/1977).
Trong nghiên cứu của Tiến sĩ Reif-Lehrer thì triệu chứng phổ biến nhất là nhức đầu và có cảm giác mặt căng. Một số đáng kể còn có triệu chứng chóng mặt, tiêu chảy, buồn nôn và bụng đau thắt. Có 50 người có triệu chứng về mắt: từ cảm giác nóng ở mắt và mờ mắt tới thấy có ánh sáng và thấy nhiều màu sắc khác nhau. Nhiều người có những phản ứng tình cảm: từ ủ dột, mất ngủ đến “cảm giác” căng thẳng. Tiến sĩ Reif-Lehrer còn thăm dò cả lứa tuổi học trò: 317 học sinh từ lớp 2 đến lớp 6 thuộc các thành phố và thị trấn khác nhau. Sau khi ăn các thức ăn khác nhau, các cháu được yêu cầu miêu tả cảm giác của mình. 19% trẻ con có phản ứng bất lợi với bột ngọt, mà phổ biến nhất là đau bụng và buồn nôn. Trong khi hầu hết những người tham gia cho biết triệu chứng trên chỉ kéo dài trong 3-4 giờ thì 10% cho biết chúng kéo dài nhiều hơn.
Tiến sĩ Arthur Colman, một thầy thuốc về tâm thần đáng kính ở San Francisco, bắt đầu thu nhập dữ kiện sau khi phát hiện hai ca đầy kịch tính do phản ứng của người bệnh chống lại bột ngọt. Một trường hợp đặc thù là Noah, do bản thân người cha – cũng là một bác sĩ – tường thuật: “Noah lên 9. Khi chúng tôi nhận ra rằng mõi lần cháu ăn những loại thức ăn thuộc nhóm “ăn liền” thì cháu bị nhức đầu và đau bụng. Cháu gặp khó khăn trong việc nín đi tiểu, đi tiêu. Có khi cháu đi ra quần. Với cậu bé lên 9 mà còn đái ra quần thì còn thể thống gì nữa. Cháu còn có những hoạt động quá mức, thậm chí quá quắt trong phong cách cư xử mà không rõ nguyên nhân nào khiêu phát ra nữa”.
“Vị bác sĩ khoa nhi trị cho cháu cũng chịu thua. Thường Noah là cậu bé dễ thương, dịu dàng, thông minh và đầy thiện cảm. Nhưng những lúc thay đổi tính khí thì cháu dễ hờn giận, lầm bầm, la hét và không còn biết phải trái gì nữa. Nhà trường cũng thấy rõ những thay đổi của cháu và chúng tôi có trao đổi với thầy, cô giáo: họ đều bảo cháu là một học sinh thường thì rất là hoạt bát và thân thiện, nhưng có những lúc cháu thay đổi đến mức tưởng như cháu là con người khác hẳn. Chúng tôi vô cùng lúng túng. Chưng tiêu chảy và không nín đi tiêu được của cháu có tác động khủng khiếp lên nhân cách của cháu, bởi cháu không còn vui đùa cùng bạn bè đồng trang lứa nữa. Cháu bắt đầu được một bác sĩ tâm thần chạy chữa vì bác sĩ khoa nhi không sao tìm được nguyên nhân gây ra tính cách kỳ cục của cháu.
“Chúng tôi nhận ra rằng những triệu chứng của cháu trầm trọng thêm sau khi dùng món gà rán hiệu Kentucky, cuối cùng phát hiện ra rằng trong món gà rán hiệu này, bọt ngọt được nêm rất nhiều để làm gia vị theo lối “bí truyền”. Họ còn nêm vào bột pha với trứng để làm áo gà lúc rán. Suốt hai tuần lễ sau, chúng tôi giữ không cho cháu đụng vào bất cứ thức ăn nào có nêm bột ngọt. Những triệu chứng bệnh của cháu mất đi như có phép lạ và cháu kiểm soát được việc đi tiểu, đi tiêu rất đàng hoàng.
“Một hôm gia đình cháu đi nhà hàng dùng món ăn của người Hoa. Noah ăn một to Hoàng thánh, chỉ năm phút sau cháu bị nặng mặt và sau đó bị đau thắt bụng phải chạy vội vào nhà vệ sinh. Suốt tuần lễ sau đó tất cả các triệu chứng cũ trở lại hết. Chúng tôi có cảm nhận rằng nguyên nhân gây bệnh của cháu là bột ngọt cho nên chúng tôi rất thận trọng trong việc ăn uống của cháu.
“Chúng tôi không kể cho vị bác sĩ tâm thần về phát hiện của mình mà vẫn để cho cháu được điều trị tiếp. Lúc gặp chúng tôi vào dịp khám cho cháu vào tháng sau, vị bác sĩ ấy hỏi chúng tôi đã làm gì mà nay cháu Noah trở thành một con người khác hẳn. Bác sĩ đề nghị ngưng điều trị nếu tình trạng tiếp tục được cải thiện như vậy. Khi gặp các thầy cô giáo của cháu, các thầy cô cũng đều nhận thấy nay cháu có sự thay đổi nhân cách vừa thuần hậu vừa ổn định.
“Nay thì tánh khí của cháu tự nhiên hơn và không còn cảm thấy bị bức bách nữa. Không có lời nào tả nổi sự vui sướng của chúng tôi - kể từ ngày gia đình không cháu Noah đụng tới thức ăn có bột ngọt nữa”.
Giá mà các triệu chứng nhẹ hơn hoặc không có những tác dụng lâu dài hay nguy hiểm, ta có thể dễ dàng bỏ qua cho bột ngọt. Nhưng phản ứng của Noah đối với bột ngọt lại trầm trọng cho mạng sống của cháu - về mặt thể xác cũng như xã hội. Tuy nhiên, còn có những trường hợp nặng hơn vậy, làm cho nạn nhân của bột ngọt lâm vào cảnh thập tử nhất sinh.
4. Phản ứng của mì chính đối với cơ thể.
Vào những năm mở cửa, mì chính ồ ạt tràn vào nước ta. Thứ gia vị “quý như vàng” của thời bao cấp trở nên quá thông dụng đến thành lạm dung, đến mức mà quãng năm 1991 – 1992 nhiều phương tiện thông tin đại chúng phải lên tiếng uốn nắn khi nhiều bà mẹ bán thịt, bán trứng gà mua mì chính quấy bột cho con. Đài báo ngày ấy chỉ nói rằng: mì chính cũng giống đường hóa học, ăn chỉ ngọt miệng dù không bổ dưỡng nhưng dễ ăn, không độc hại! Không sao. Vậy nhiều năm nay chúng ta cứ “vô tư” dùng mì chính văng mạng, thành thói quen. Nồi canh rau, xoong thịt kho, đĩa xào, bát nước rau, thậm chí bát nước mắm chấm thường được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính.
Mới đây một công trình khảo nghiệm khoa học của nhà nghiên cứu người Mỹ gốc Hàn Quốc Hwo Woong Zhong đăng trên tờ tạp chí Khoa học Mỹ số 7 – 1996 (Science No 7) với tên: “Hội chứng món ăn tài” (Chira Distres Symtoms) đã công bố những tác hại của việc dùng mì chính: Nếu dùng quá sẽ gây những tác hại cho các nơron thần kinh duy trì trí nhớ. Mặc dù muối Natri gốc Axít glutamic có tác dụng làm giảm lượng Amoniắc trong hệ tuần hoàn não nên phần nào có tác dụng làm giảm đau đầu (một thời có người đã chữa chứng đau đầu bằng... ăn nhiều mì chính). Nhưng sau đó, chính nó lại hạn chế khả năng trao đổi chất của các tế bào thần kinh, gây nên lão hoá. Đó chíh là nguyên nhân làm suy giảm trí nhớ.
Từ công trình nghiên cứu khoa học trên đây, ngày nay, tổ chức WHO (Tổ chức vì sức khoẻ của thế giới) và tổ chức Nông lương thế giới FAO đã khuyến nghị: Không nên dùng mì chính trong chế biến cho trẻ em dưới 6 tuổi. Cũng tác giả bài báo này đã thống kê và chỉ ra rằng: Châu Âu và các nước phát triển hầu như không ăn mì chính. Các nước sản xuất nhiều mì chính chỉ đem....xuất khẩu (Mỹ tiêu thụ nội địa 0,7%; Pháp 0,9%; Braxin 1%). Ngay nước Nhật, nước phát minh ra mì chính cũng chỉ làm ra để bán chứ tiêu thụ nội địa có 1,5% lượng mì chính làm ra. Một số trắc nghiệm của các nhà hoá thực phẩm Anh - Mỹ còn chỉ ra rằng: Ăn nhiều mì chính trong thức ăn một lần có thể gây triệu chứng buồn nôn, chóng mặt, ngứa dị ứng toàn thân hoặc từng phần; đặc biệt là phản ứng tăng nhanh nhịp tim... rất nguy hiểm cho người cao huyết áp.
Từ vài chục năm nay, mì chính, bột canh luôn là bạn đường thuỷ chung của các món ăn, nhà bếp Việt Nam. Bất kỳ món ăn nào của ta hiện nay cũng đều được nêm cỡ 1 thìa cà phê mì chính. Các món ăn hướng dẫn trên ti vi, trên báo, không món nào nêm dưới 2 thìa cà phê thứ muối a xít này. Ngay mì tôm, thứ đồ ăn rẻ tiền, dẫn dã cũng có tới 4 gr mì chính 1 gói. Chả thế mà hiện nay, hai nhà máy chuyên sản xuất mì chính ở Việt Trì và Vedan ở Đồng Nai và nhiều nhà máy bột canh ở Hà Nội, Sài Gòn cũng chưa cung cấp đủ nhu cầu nội địa. Hàng năm ta vẫn phải nhập mì chính từ Nhật, Đài Loan, Nam Triều Tiên, Braxin với rất nhiều tên thương phẩm như Ajinomoto, Aone...và cả mì chính Tàu nữa mới đủ cho nhu cầu thị trường. Thử làm một tính nhẩm nhỏ: trung bình một gia đinh 4 người 1 ngày dùng bình thường cỡ 7 thì cà phê cho các món ăn của 3 bữa, ước tính bình quân 4gr/thìa, tức là, bình thường 1 người dùng 7 gam: đã vượt quá giới hạn cho phép đến 15-20%. Nếu hiện tượng này không nhanh được uốn nắn liệu mai đây cái gì sẽ xảy ra?
Đặc biệt là các cửa hàng, nhà hàng lại càng lạm dụng mì chính để hấp dẫn khách, nhất là các cửa hàng phở, bún, miến... Ngày xưa để bán được phở, bún trong các nồi nước dùng phải có thật nhiều xương và tôm nõn ninh lấy vị ngọt. Ngày ấy phở, bún không mọc như nấm như ngày này. Ngày nay vô tình chúng ta đang tự đầu độc hoặc bị đầu độc bằng chất độc ngọt ngào: Mì chính.
Đã đến lúc các nhà khoa học, các phương tiện thông tin đại chúng cần vào cuộc tuyên truyền, uốn nắn một thói quen có hại của việc lạm dụng mì chính trong chế biến thực phẩm. Đừng để đến lúc các tác hại của hội chứng lạm dụng mì chính phát tác thì sẽ là quá muộn.
5.Phương cách loại bỏ mì chính.
Những năm qua chúng tôi đã đọc được lời cảnh báo về MGS (mì chính, hay bột ngọt): đầu tiên là từ các sách hướng dẫn phòng và trị bệnh bằng phương pháp thực dưỡng Ohsawa, mãi sau này là từ các sách báo như tạp chí “Thuốc và sức khoẻ”...Kể từ đó trong gia đình tôi “bỏ mì chính” một cách từ từ. Chúng tôi đã ăn chay trường tức là bỏ cá, thịt, trứng, rượu bia được hai năm rồi sau đó mới bỏ được mì chính, bỏ mì chính rất khó vì người thường không rõ tác hại ngay lập tức của nó. Bỏ nó khónhư bỏ thuốc lá, có lẽ còn khó hơn nữa vì người ta dễ cho rằng mì chính cũng là thức ăn chay. Trước đây có thời nó được quảng cáo dùng để trị bệnh “nhức đầu” và suy nhược thần kinhh và làm dễ nuốt cơm.
Kỳ thực ăn mì chính rất có hại cho cơ thể vì nó đánh lừa cảm giác. Khi cơ thể co s cảm giác chán ăn đó là do mỏi mệt hoặc đầy ứ chất độc cần được nghỉ ngơi bằng phép tiết thực hoặc thải bỏ chất độc ra ngoài thì người ta hay dùng lý trí và cảm tính lệch lạc để nhồi nhét những thức ăn đã được cho nhiều mì chính hơn để dễ nuốt!
Thực ra người ta cần có trực giác phát triển để cảm nhận chính xác về cơ thể, để ứng xử với “nó” cho phải. Nhưng phần đông dân chúng thay vì để cho cơ thể nghỉ ngơi một chút khi có cảm giác chán ăn (điều này giống như đènhiệu đỏ báo tạm dừng xe cộ) thì thay vào đó người ta chế ra đủ thứ món ăn ngon vật lạ, đặc sản....với cách nấu ăn cực kỳ phức tạp để đáp ứng một mục đích “dễ nuốt” mà bất cần xem cơ thể có thực sự cần những thức ăn đó hay không? Nếu người ta biết gốc của Đạo là Tự nhiên thì người ta dễ dàng nhận thức ngay được mì chính là một thứ hoá chất nhân tạo chế biến theo phương pháp hoá học phản tự nhiên hết sức.
Tôi có một anh bạn Việt kiều ở Mỹ về, da anh bóng lưỡng hông hào béo tốt khoẻ, được biết anh ăn chay rất kỹ, anh không dùng trứng và đặc biệt anh không dùng mì chính, anh nói anh chỉ cần ăn chút thức ăn có mì chính là cái cổ anh nó rát liền, anh có cơ thể mẫn cảm. Tôi hỏi anh bí quyết để có làn da đẹp – anh bảo do anh biết kỹ thuật thở và thiền định. Tôi chợt giật mình vì thấy cách đây 5, 7 năm về trước mỗi bát phở người ta có cho chút mì chính (do trước đây mì chính phân phối và đắt đỏ), nay người ta cho gấp 2-3 lần. Không biết có phải do quảng cáo về mì chính trên các phương tiện thông tin đại chúng mà ra hay không?
Một người bạn nhắc tôi: Cứ để ý cái thìa họ thường xuyên múc mì chính mà xem! Nếu là thìa nhôm - loại thìa xúc bột trẻ con – thì thấy ngay nó gỉ két lại. Sở dĩ có hiện tượng dó vì thực chất mì chính là một loại có gốc axít (MSG Mono Sudium Glutamate).
Mỗi lần tôi có việc phải đi ăn cơm khách hay nhà hàng, mặc dù họ nấu chay là trở về nhà tôi bị hỏng vị giác mất 2, 3 hôm. Sau đó vị giác tôi mới hồi lại, ăn những thức ăn mẹ tôi nấu mới thấy ngon. Tôi đã qua kinh nghiệm này hàng chục lần, đều cho một kết quả y như vậy. Có một người mà tôi biết có vị giác rất tinh nhạy – đó là bà Diệu Hạnh Ngô Thành Nhân ở 390 Điện Biên Phủ, quận Bình Thạnh TP.Hồ Chí Minh. Xem cách phán đoán về thức ăn của bà, tôi rất lấy làm khâm phục về trực giác và vị giác của bà.
Theo sự học hiểu của chúng tôi, một người gọi là khoẻ mạnh là người đạt được 7 tiêu chuẩn:
1.Không mệt mỏi.
2.Ngon ăn.
3.Ngủ ngon giấc.
4. Trí nhớ tốt.
5.Sắc mặt vui tươi.
6.Phán đoán và thực hành nhanh nhạy
7.Công bằng.
Trong đó “ngon ăn” là một trong những tín hiệu của cơ thể khoẻ mạnh. Theo Ohsawa, nếu gặp bất cứ món ăn thiên nhiên nào các bạn cũng ăn một cách nhác nhớm không ngon lành, thế là các bạn không ngon ăn; nếu các bạn gặp một miếng bánh mì khô hẩm hoặc một nắm cơm, các bạn cũng ăn một cách ngon lành, thế là các bạn ăn ngon, dạ dày các bạn được tốt. Ăn ngon miệng tức là có sức khoẻ.
Vậy nếu các bạn ngon ăn rồi thì các bạn còn dùng mì chính làm chi nữa? Có phải mì chính được cho vào thức ăn để làm cho các bạn ngon ăn và ăn được nhiều lên không? Nếu nhờ mì chính mà bạn mới thấy ngon ằn thì đúng là bạn không còn ngon ăn nữa rồi và do vậy bạn đâu còn khoẻ mạnh. Thực sự con người ta rất tham ăn và luẩn quẩn – Vì không ngon ăn (tức là cơ thể không còn khoẻ mạnh, đáng lẽ phải tiết thực để lấy lại trạng thái ngon ăn) nên sử dụng mì chính để tự mình lừa cảm giác của mình. Cứ đưa thức ăn vào làm cho cơ thể muốn nghỉ ngơi một chút cũng không được, và cứ thế...trong vòng lẩn quẩn. Không còn lúc nào biết ngon ăn thật và ngon ăn giả (do thức ăn có mì chính...), kéo theo không còn biết tình trạng cơ thể mình lúc nào khoẻ mạnh thật sự lúc nào mệt mỏi cần nghỉ ngơi... cho đến lúc bệnh lộ ra, viêm họng, ung thư; các loại bệnh nặng lộ ra...lúc đấy bạn cũng không biết nguyên nhân do đâu mà lại phải nhờ đến các loại bác sĩ, thầy thuốc...Con đường của chúng tôi là con đường tự mình làm thầy của mình, tự mình làm bác sĩ cho mình.
Để kiểm chứng về tác hại của bột ngọt (mì chính) tôi đã đọc tài liệu về tác hại của mì chính cho một người quen của tôi - một người rất hay dùng mì chính. Bạn đó nói: Đúng, đúng toi mắc một số bệnh đúng như báo nói. Không biết sau đó bà có chịu bỏ mì chính để đổi lấy một cơ thể lành mạnh hơn lên không?
Cách thức mà tôi bỏ thành công mì chính là: Bỏ từ từ, tìm chất ngọt từ thiên nhiên như cà rốt, củ đậu...nhất là từ tương cổ truyền và đặc biệt là Misô. Chúng tôi làm lấy gia vị: Muối đãi sạch, rang, giã nhỏ trộn với một chút đường hoa mai (đường vàng) cùng với cà rốt nhỏ sao khô, tán nhỏ trộn vào....thay bột canh trên thị trường (có trộn nhiều mì chính nội). Các bạn có thể sáng tạo những món bột canh thiên nhiên khác. Gần đay trên thị trường có bán một số bột canh thiên nhiên từ nấm hương...của Hồng Kông, Đài Loan...tuy nhiên chỉ nên dùng hạn chế, ở giai đoạn “chuyển tiếp” để sang giai đoạn không dùng bột ngọt trong bất cứ tình huống nào là tốt nhất.
6.Lời kêu gọi
Từ tháng 7 năm 1987 cuộc họp của 15 tổ chức thuộc 5 nước: Indonesia, Nhật, Nam Triều Tiên, Thái Lan, Mã Lai ở Bangkok đã quyết định hình thành “Tổ chứ hành động chống Bột ngọt” đưa ra tuyên bố Bangkok kêu gọi: “Cấm dùng bột ngọt trong thực phẩm cho trẻ em, thiếu niên và phụ nữ có thai”.
Hội nghị lần thứ 12, “Hội bảo vệ người tiêu dùng thế giới” họp ở Ma drit (Tây Ban Nha) với 13 nước thành viên cũng lập lại một lần nữa các đề nghị của tuyên bố Bangkok. Tổ chức hành động chống bột ngọt “No MSG please day” (MSG: Mono Sodium Glutamate) ra đời.
Tầm lan rộng bột ngọt nguy hại hơn thuốc lá và rượu! Vì rượu và thuốc lá chỉ có một số thanh niên và người lớn dùng có giới hạn; còn bột ngọt thì pha trộn trong thức ăn cho mọi lứa tuổi dùng thường xuyên hàng ngày, mà chính người dùng hoàn toàn không biết hậu quả về lâu về dài rất nguy hiểm.
Một điều khẳng định rằng: “Bột ngọt chỉ tạo ảo giác ngon miệng sự thực không phải là chất bổ dưỡng cần thiết, mà trái lại gây hậu quả thật là vô cúng”. Nhiều tài liệu các nước Đông Âu, Mỹ, Pháp, Nhật, Hồng Kông... đã yêu cầu không nên sử dụng bột ngọt trong thức ăn trẻ nhỏ và khuyên người lớn cần tránh!
Nhiều cán bộ, Tiến sĩ, Dược sĩ, Bác sĩ, các nhà chuyên môn giữ nhiều chức vụ then chốt trong ngành dinh dưỡng, Y khoa tại Việt nam đều nhất trí cao lên tiếng cảnh báo về tầm nguy hại sức khoẻ trầm trọng lâu dài trong việc ăn bột ngọt. Giáo sư Tiến sĩ Hà Huy Khôi (Viện trưởng Viện dinh dưỡng Việt nam- Bộ y tế), đồng chí Lê Văn Thiệu (Tổng thư ký Hội bảo vệ tiêu chuẩn và Người tiêu dùng Việt Nam), Tiến sĩ Dược khoa Phạm Văn Tất (Chuyên viên Viện vệ sinh Y tế công cộng), Dược sĩ Diệu Phương (Tổng Hội Y dược học – Hội dược học Việt Nam), Bác sĩ Nguyễn Lân Đính... và nhiều nhà nghiên cứu khác đã ra thông báo, đăng bài khắp các báo: Tạp chí Thuốc và Sức khoẻ (sô 8-9/92 và số 18/93), Thông báo của Viện dinh dưỡng Bộ Y tế, công văn số 266/VSTP (ngày 22/9/93), Nhật báo Sài Gòn Giải Phóng (1/1193), Báo Khoa học Phổ Thông (số 407, số 561)....
Do đó không nên chấp nhận việc sản xuất và nhập khẩu vào Việt Nam một lượng mì chính với những con số khủng khiếp như hiện nay.
Điều đớn đau nhất là một dân tộc vừa chập chững đứng lên sau nhiều năm chiến tranh liên miên, hiện nay bị đầu độc gây bệnh thấp khớp, đái đường, teo não, bại não, mất trí nhớ dần dần. Thần kinh là cơ quan trung ương của con người mà bị huỷ hoại thì cả thế hệ phải tự triệt tiêu nòi giống.
Sưu tầm.
Rượu tốt chữa bệnh sinh lý
Bài thuốc: Dâm dương hoắc 60g, Phục linh 30g, Đại táo 9 quả.
- Ba thứ đem hấp chín, phơi khô 3 lần, sau đó thái nhỏ, ngâm với 2 bát rượu trắng và 100g Mật ong.
- Đậy kín, để 1 tháng rồi lấy ra uống ngày 2 – 3 chén nhỏ. Dùng liền 3 tháng.
Yếu sinh lý bằng nguồn thuốc tự nhiên từ cây cỏ và động vật. Sau đây là một số bài thuốc ngâm rượu hiệu quả:
Bài 1:
- Cá ngựa đã chế biến 30g, Bàn long sâm 30g, Cốt toái bổ 20g, Long nhãn 20.
- Tất cả ngâm với một lít rượu trắng trong 5 – 7 ngày, càng lâu càng tốt.
- Ngày uống 20 – 40ml. Người không uống được rượu đặc, pha thêm nước và Mật ong mà uống.
Bài 2:
- Tắc kè 50g; Ba kích, Hà thủ ô, Hoàng tinh hoặc Thục địa mỗi vị 100g; Đại hồi 10g.
- Tắc kè ngâm với Đại hồi trong rượu 35 độ để được 300ml.
- Các dược liệu khác cũng ngâm với rượu 35 độ để được 700ml.
- Hoà lẫn hai rượu với nhau, thêm 100g đường kính (đã nấu thành siro) để thành 1 lít. Lọc kỹ, ngày uống 1 – 2 lần, mỗi lần 15 – 20ml sau bữa ăn hoặc trước khi đi ngủ.
Bài 3:
- Dâm dương hoắc 12g; Ba kích, Sa sâm mỗi vị 16g; Thỏ ty tử, Nhục thung dung, Kỷ tử mỗi vị 12g; Đỗ trọng, Đương quy, mỗi vị 8g; Cam thảo 6g; Đại táo 3 quả.
- Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 1 lít rượu 35 – 40 độ (càng lâu càng tốt). Uống trong vòng 1 tuần.
Bài 4:
- Dâm dương hoắc 60g, Ngài tằm đực 100g, Kim anh 50g, Ba kích 50g, Thục địa 40g, Sơn thù du 30g, Ngưu tất 30g, Kỷ tử 20g, Lá hẹ 20g, Đường kính 40g.
- Tất cả ngâm với 2 lít rượu 40 độ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ.
Bài 5:
- Chim bìm bịp 2 con (1 lớn, 1 nhỏ) làm thịt, để tươi; tắc kè 1 con, làm thịt, phơi khô; củ Sâm cau 100g phơi khô.
- Tất cả ngâm với 1 lít rượu 30 – 40 độ, càng lâu càng tốt. Ngày 2 lần, mỗi lần uống 30ml.
Bài 6:
- Kỷ tử 120g, Đương quy 60g, Thục địa 180g.
- Tất cả thái nhỏ, ngâm với 3 lít rượu 35 – 40 độ. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30ml.
Bài 7:
- Mật cá chép và gan Gà trống mỗi thứ 1 cái, nghiền nát, ngâm với 500ml rượu trắng trong 5 – 7 ngày, thỉnh thoảng lắc đều.
- Ngày uống 2 lần, mỗi lần 30ml
Dâm dương hoắc - Rượu “Tiên” của cánh mày râu
Gọi là Dâm dương hoắc là vì đây là thứ cây dân gian thường lấy lá cho dê ăn, có công dụng làm tăng ham muốn tình dục. Cây còn có nhiều tên gọi như Cương tiền, Phương trượng thảo, Thiên lưỡng kim, Hoàng liên tổ, Ngưu giác hoa, Phế kinh thảo…
Dâm dương hoắc là gì?
Dâm dương hoắc là một trong những vị thuốc bổ dương của Dược học Cổ truyền. Thực chất, đó là lá phơi hay sấy khô của nhiều loại cây thuốc thuộc chi Epimedium như Dâm dương hoắc lá to (E. macranthum Morr. et Decne), Dâm dương hoắc lá mác (E. sagittatum Sieb. et Zucc), Dâm dương hoắc lá hình tim (E. brevicornu Maxim), Dâm dương hoắc có lông mềm (E. koreanum Nakai)… Gọi là Dâm dương hoắc là vì đây là thứ cây dân gian thường lấy lá cho dê ăn, có công dụng làm tăng ham muốn tình dục. Cây còn có nhiều tên gọi như Cương tiền, Phương trượng thảo, Thiên lưỡng kim, Hoàng liên tổ, Ngưu giác hoa, Phế kinh thảo…
Rượu Dâm dương hoắc có công dụng gì?
Theo Dược học cổ truyền, Dâm dương hoắc vị cay ngọt, tính ấm, có công dụng ôn thận tráng dương (làm ấm tạng thận và khoẻ dương khí), cường cân tráng cốt (làm mạnh gân xương) và khứ phong trừ thấp; thường được dùng để chữa các chứng bệnh như liệt dương, di tinh, tinh lạnh, muộn con, lưng đau, gối mỏi, gân cốt co rút, bán thân bất toại, tay chân yếu lạnh, phong thấp, tiểu tiện bất cấm…
Kết quả nghiên cứu Dược lý hiện đại cho thấy: Dâm dương hoắc có tác dụng tương tự như nội tiết tố sinh dục, làm tăng trọng lượng của thuỳ trước tuyến yên, tinh hoàn, buồng trứng và tử cung trên động vật thực nghiệm, kích thích quá trình bài tiết tinh dịch, nâng cao năng lực hoạt động của tinh hoàn, gián tiếp làm hưng phấn và tăng cường khả năng tình dục. Mặt khác, Dâm dương hoắc còn có khả năng ức chế một số vi khuẩn như tụ cầu trắng, tụ cầu vàng, phế cầu khuẩn, thậm chí cả trực khuẩn lao. Ngoài ra, vị thuốc này cũng có tác dụng giảm ho, trừ đờm, chống co thắt phế quản, làm hạ huyết áp và bảo hộ tế bào cơ tim trong điều kiện thiếu ôxy nhờ khả năng làm tăng lưu lượng động mạch vành như cơn đau thắt ngực do thiểu năng động mạch vành, suy nhược thần kinh, viêm phế quản mạn tính, viêm khớp trẻ em, thiểu năng sinh dục…
Cách chế rượu Dâm dương hoắc?
Trước hết phải tiến hành bào chế Dâm dương hoắc. Theo cổ nhân, có thể dùng dưới dạng sống hoặc sao, tốt nhất nên dùng dạng sao. Có năm cách sao:
- Sao với mỡ dê: Một lạng Dâm dương hoắc thường phải cần 20g mỡ dê. Đem mỡ dê rán lấy mỡ nước, bỏ tóp rồi cho Dâm dương hoắc đã thái vụn vào sao nhỏ lửa cho đến khi thấm hết mỡ là được.
- Sao với muối: Thường dùng nước muối 2% với lượng vừa đủ sao Dâm dương hoắc cho đến khi khô hết nước, dược liệu chuyển màu hơi đen là được.
- Sao với rượu: Mỗi lạng Dâm dương hoắc cần dùng từ 20 - 25ml rượu, phun đều rồi sao nhỏ lửa cho đến khi dược liệu khô là được.
- Sao với bơ: Mỗi lạng Dâm dương hoắc cần dùng 25g bơ, đem bơ đun nóng chảy rồi cho dược liệu vào sao cho khô là được.
- Sao thường: Cho Dâm dương hoắc vào chảo dùng lửa nhỏ sao cho đến khi chuyển màu hơi đen là được.
Sau đó đem ngâm với rượu, thông thường, cứ 500g Dâm dương hoắc cần dùng 5 lít rượu gạo loại một, đây là công thức cổ nhân thường dùng, được ghi trong Y thư cổ Thọ thế bảo nguyên. Tốt nhất là chọn loại bình gốm miệng hẹp, lòng rộng để ngâm. Mùa xuân và mùa hạ sau 3 ngày, mùa thu và mùa đông sau 5 ngày là có thể dùng được, mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần từ 15 - 20ml.
Dâm dương hoắc nên ngâm phối hợp với những vị thuốc nào?
Để nâng cao hiệu quả của rượu Dâm dương hoắc người ta thường phối hợp với một số vị thuốc như Tiên mao, Ba kích, Nhục thung dung, Tử thạch anh, Uy linh tiên, Cao lương khương, Sinh khương… Phối hợp với Tiên mao, Ba kích và Nhục thung dung nhằm nâng cao khả năng bổ thận, tráng dương, tăng cường năng lực tình dục, phòng chống liệt dương và di mộng tinh. Phối hợp với Tử thạch anh để làm ấm tử cung, phòng chống tích cực các chứng bệnh ở phụ nữ như thống kinh, bế kinh, băng huyết, rong kinh, khó thụ thai do thận dương hư suy. Phối hợp với Uy linh tiên để tăng cường khả năng khu phong trừ thấp, phòng chống hữu hiệu bệnh lý viêm khớp do hư lạnh. Phối hợp với Cao lương khương (củ Giềng) hoặc Sinh khương (Gừng tươi) để nâng cao khả năng trừ hàn, phòng chống tích cực bệnh lý viêm loét dạ dày, tá tràng và đại tràng do hư lạnh.
Khi dùng rượu Dâm dương hoắc cần chú ý gì?
Những quy tắc khi rửa mặt
1. Trước khi rửa mặt cần rửa... tay
Mỗi lần rửa mặt, nhất định nhớ phải rửa tay trước. Hãy đặt một lọ nước rửa tay ngay cạnh kem rửa mặt để khỏi quên.
Mỗi lần bạn nên nhỏ nước rửa tay chuyên dùng hoặc xà phòng thơm vào lòng bàn tay, sau đó xoa đều trong vòng 30 giây và rửa sạch tay rồi mới bắt đầu từng bước rửa mặt.
Nếu sau khi xoa đều mà tay không nổi bọt hoặc do bọt trong tay quá bẩn thì bạn nên rửa sạch và rồi thêm nước rửa tay rửa lại lần nữa.
2. Nhiều bọt, nhẹ nhàng, tránh những vùng nhạy cảm
Chọn sữa rửa mặt phù hợp với làn da.
Sau khi xoa hai tay vào nhau để bọt nổi, bắt đầu từ trên xuống dưới, xoa mặt theo vòng tròn kim đồng hồ, bất luận bạn xoa ở đâu cũng không nên quá 30 lần, cũng không nên dùng lực quá mạnh.
Cần chú ý khu hình chữ T, trên dưới lỗ mũi và khoang mắt. Khu hình chữ T thường xuyên mọc mụn nhưng không vì thế mà dùng lực mạnh.
3. Không rửa mặt quá nhiều lần
Rửa mặt cũng như chúng ta uống nước, lạnh nóng tự chúng ta biết. Thay vì tin vào chuyên gia làm đẹp thì hãy hỏi chính bản thân xem có thoải mái không? Các biện pháp của chuyên gia có hữu hiệu không?
Kể cả da bạn có nhiều dầu cũng không nên rửa mặt thường xuyên, nếu không khi bạn rửa sạch dầu thì cũng đồng thời “vắt kiệt” hết lượng nước ở trong da (cho dù bạn có uống bao nhiêu nước thì cũng không thể bù đắp nổi). Và những ngày thời tiết quá lạnh (đến mức nước đóng băng) và cả ngày ở trong nhà hoặc chỉ ra ngoài chút ít thì không nhất thiết phải rửa mặt.
Mùa hè nóng bức, chưa làm gì mồ hôi đã nhễ nhại thì nên làm thế nào? Buổi trưa bạn có thể rửa mặt nhưng chỉ dùng nước, rửa nước ấm một lượt sau đó rửa qua nước lạnh, ấm lạnh thay thế nhau nhiều lần như thế cũng là cách để bạn tỉnh táo, thoải mái bước vào một buổi chiều làm việc hứng thú.
Nếu thời gian chính của bạn là ở ngoài đường (trên 2 tiếng), cảm thấy mặt có nhiều bụi bẩn thì nên rửa 2 lần/ngày. Riêng buổi tối thì lần đầu rửa với sữa rửa mặt dạng bọt, làn thứ 2 rửa với sữa rửa mặt dạng sữa.
• Mùa xuân và mùa thu, buổi sáng nên dùng sữa rửa mặt dạng sữa, buổi tối dùng sữa dạng bọt
4. Dùng nước ấm, lạnh
Nhiều người cho rằng bí quyết làm đẹp của họ là hàng ngày rửa mặt bằng nước lạnh nhưng mùa đông nếu toàn rửa mặt bằng nước lạnh bạn có chịu được không?
Nguyên nhân mọc mụn là do chất bẩn (bụi bặm, dầu mỡ hoặc tế bào chết) không được kịp thời “tẩy chay” khiến lỗ chân lông bị tắc nghẽn. Vậy nên cách tốt nhất để làm sạch chất bẩn là dùng nước ấm để lỗ chân lông nở ra, dùng sữa rửa mặt nhẹ nhàng xoa đều lên mặt, để cho sữa đem đi hết những chất bẩn, sau đó rửa sạch bằng nước và dùng nước lạnh rửa lại để thu nhỏ lỗ chân lông. Đây cũng là cách giữ cho da sạch sẽ và đàn hồi.
Rửa nước lạnh lần cuối ngoài tác dụng thu nhỏ lỗ chân lông, còn làm cho đầu óc tỉnh táo, thần khí thoải mái, da mặt sạch sẽ; tăng cường khả năng thích nghi với thời tiết.
5. Chỉ dùng tay
Bạn chỉ dùng tay mát xa sau khi bôi sữa rửa mặt lên và hãy tưởng tượng mặt bạn là một đồ vật vô cùng quý giả, bạn phải nâng niu, động tác phải nhẹ nhàng.
Không nên dùng khăn rửa mặt nhúng nước ướt rồi chà hoặc lau lên mặt vì như thế da mặt sẽ bị kích thích và sẽ trực tiếp làm cho mặt đỏ lên hoặc bị tổn thương.
Nếu dùng chậu để rửa mặt thì nhớ vệ sinh chậu sạch sẽ trước khi pha nước.
6. Quy tắc dùng khăn mặt
Khăn mặt ít nhất 1 tuần phải giặt một lần, khi giặt cho thật nhiều xà phòng. Hãy xem nó như mấy năm rồi chưa được giặt, dùng lực thật mạnh để vò, sau đó xả và giặt sạch, phơi dưới ánh nằng mặt trời.
Nếu có điều kiện, tốt nhất là sau khi giặt xong nấu sôi khoảng 5 phút.
Nhớ là phơi khô khăn dưới ánh mặt để tia tử ngoại tiêu diệt vi khuẩn.
Nên dùng khăn riêng cho từng bộ phận: khăn lau mặt, lau đầu, lau chân, lau người, khăn tắm, vệ sinh cá nhân...
5 triệu chứng quý ông không thể coi thường
Các bác sĩ cho rằng đó là điều "đáng ghét" nhất ở phái khoẻ. Biết tính khí của giới "coi trời bằng vung" này, họ chỉ nhẹ nhàng nhắc nhở 5 triệu chứng mà các đấng nam nhi, dù có khoẻ như voi cũng không thể coi thường.
1. Đau ngực
Đau ngực có thể là triệu chứng của bệnh nhồi máu cơ tim
Đau thắt ngực là một triệu chứng rất nguy kịch nhưng rất hay bị bỏ qua, vì thấy mình đang khoẻ thế cơ mà! Các bậc mày râu thường xuê xoa theo cách thiếu hiểu biết: "Chuyện vặt. Chẳng qua mình ăn không tiêu hoặc đêm qua thức khuya quá đấy thôi".
GS Harvey Simon, trường y thuộc Đại học Harvard nói: "Tôi thường xuyên nhắc nhở các sinh viên của tôi rằng triệu chứng thông thường nhất của nhồi máu cơ tim là đau ngực. Triệu chứng thông thường thứ hai của nhồi máu cơ tim là nó bị coi thường".
Lời dặn khẩn cấp: quý vị nào bỗng nhiên đau thắt ngực, kèm theo khó thở nên lập tức gọi bác sĩ. Cẩn thận bao giờ cũng hơn
2. "Dốc tâm sự" thường xuyên
Cứ chốc chốc lại cần đứng dậy, ra toilet "dốc bầu tâm sự", ấy là dấu hiệu của bệnh viêm tuyến tiền liệt (Prostatis).
GS Simon dạy sinh viên: "Khi khám bệnh các anh luôn luôn phải hỏi bệnh nhân nhất là những người lớn tuổi, một đêm ông đi tiểu mấy lần? Ông ta trả lời, hai ba lần - thế ông có lấy làm khó chịu về điều đó không? Ông ta bảo không. Các anh cần phải nghiêm giọng cảnh báo: Ông "phải" coi điều đó là khó chịu vì nó tiềm ẩn một nguy cơ lớn hơn nhiều".
3. "Thằng bé" dạo này lười biếng quá
Bất lực tức "trên bảo dưới không nghe" có thể là bệnh tâm lý thuần túy, nhưng nó cũng dấu hiệu khá đặc trưng của bệnh tim mạch.
"Thằng bé" chính là thước đo sức khỏe của bạn. Nếu nó không được các động mạch cung cấp máu một cách đầy đủ để vươn mình thì cũng có nghĩa việc tuần hoàn máu đến tim và não có chuyện rồi.
GS Simon khuyên: "Bạn nên tìm đến bác sĩ hơn là nhờ vả cái chú Viagra láu lỉnh ấy. Bởi bác sĩ sẽ coi bất lực chính là một cách thể hiện các bệnh khác đi kèm, có liên quan đến động mạch vành, bệnh huyết áp, và hàm lượng cholesterol"
4. Nghiện thuốc
Nhiều người đã được chữa khỏi một bệnh nào đó bằng một thứ thuốc nào đó, họ nhớ tên thuốc và mỗi lần thấy bồn chồn khó chịu họ lại tự động mua thuốc về dùng thấy dễ chịu hẳn. Họ tưởng như đã biết cách tự chữa bệnh cho mình mà chẳng cần đến bác sĩ nữa.
Họ đâu biết rằng đó chẳng qua là triệu chứng nghiện thuốc vì thực ra bệnh đã khỏi, thứ thuốc trước đó được ghi trong đơn chẳng có giá trị chữa bệnh nữa mà chỉ phục vụ một sự phụ thuộc thuốc (vốn là bản chất của sự nghiện) mà thôi. Các cửa hiệu thuốc cho biết, khá nhiều người nghiện Oxycontin và Vicodin.
Thuốc suy cho cùng là hóa chất. Tạo ra một sự phụ thuộc vào một thứ hóa chất (tuy không bị quy định là chất ma túy) thì chẳng hay ho gì. Thuốc nào chẳng có hiệu ứng phụ mà ta không hề mong muốn.
5. Bụng bự
"Mỡ bụng là thứ mỡ tồi tệ nhất trong cơ thể bạn": GS Harry Fisch. Khoa Tiết niệu học lâm sàng ĐH Columbia nói - "Bụng to là dấu hiệu của một người có mức testosteron thấp. Lượng testosteron trong máu càng thấp bao nhiêu, thì nguy cơ bị tiểu đường và bệnh ở động mạch vành lại cao bấy nhiêu".
Khác nhau nam nữ là đây: Trong khi các bà tìm mọi cách bóp mồn bóp miệng để tuân thủ chế độ ăn kiêng (nhiều khi vì lý do thẩm mỹ hơn là do bệnh tật) thì các ông chọn giải pháp khác, hạ chiếc thắt lưng xuống thấp hơn" và thế là coi như yên tâm.
GS Simon kể: "Một ông to béo tự hào bảo tôi: Bác sĩ xem, size quần tôi vẫn thế! Tôi trả lời: Nhưng cái bụng ông đã mất đi đâu. Chỉ khác là bây giờ nó nằm phía trên quần ông đấy thôi".
Bệnh béo phì
Cân nặng (kg)
BMI = --------------------
Chiều cao2 (m)
Trên cơ sở BMI của từng người, có thể biết thể trạng người đó như sau:
- Thiếu cân: BMI <> 30
- Cực béo hoặc béo bệnh: BMI > 40.
Ngoài BMI, còn có thể biết một người có bị béo phì hay không nhờ một số thông số khác là vòng eo và tỷ lệ eo/hông. Khi nam giới có vòng eo trên 40 inches hoặc nữ trên 35 inches là có nguy cơ cao. nam giới thường béo bụng nhiều hơn (còn gọi là béo hình quả táo) và nguy cơ lớn hơn nữ giới thường béo hông (béo hình quả lê).
10 nguyên nhân khác có thể dẫn tới béo phì và được đăng tải trên Tạp chí quốc tế về Béo phì:
1. Ngủ quá ít. Nếu bạn bị mất ngủ thường xuyên hoặc bận rộn đến mức có rất ít thời gian để chợp mắt thì nguy cơ tăng cân trong tương lai là điều khó tránh khỏi.
2. Ô nhiễm. Một số loại hormone kiểm soát trọng lượng cơ thể. Môi trường ngày nay đang bị ô nhiễm bởi các chất thải từ xe cộ, động cơ… sẽ tác động rất lớn tới những hormone này.
3. Điều hòa không khí. Bạn có thể đốt cháy một lượng calo nếu môi trường quanh bạn quá nóng hay quá lạnh để điều hòa thân nhiệt. Tuy nhiên, nhiều người ngày nay sống và làm việc trong những ngôi nhà hay văn phòng mà nhiệt độ luôn được kiểm soát ở mức lý tưởng.
4. Bỏ thuốc lá. Hút thuốc cũng giúp giảm cân. Thế giới ngày càng có nhiều người bỏ thuốc lá và vì thế cũng ngày càng có nhiều người béo phì?
5. Thuốc men. Rất nhiều loại thuốc khác nhau, bao gồm thuốc ngừa thai, thuốc chứa hormone, thuốc tiểu đường, thuốc chống suy nhược và thuốc áp huyết cao... Đây là nguyên nhân gây ra sự thay đổi về cân nặng. Sử dụng những loại thuốc này sẽ khiến cân nặng của cơ thể có xu hướng đi lên.
6. Tuổi thọ và chủng tộc. Những người Trung Mỹ và những người Mỹ gốc Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha thường có xu hướng bị béo phì hơn những người Mỹ gốc Âu.
7. Mẹ nhiều tuổi. Đã có một số bằng chứng cho thấy những người phụ nữ lớn tuổi mới sinh con lần đầu thì đứa trẻ thường có nguy cơ bị béo phì cao hơn. Rất nhiều phụ nữ Mỹ sinh con lần đầu khi lớn tuổi thậm chí đã già.
8. Di truyền từ tổ tiên. Có một số ảnh hưởng sẽ tác dụng lên thế hệ thứ 2. Sự thay đổi của môi trường đã tác động đến bào thai và làm cho những gien di truyền của ông bà vốn đã bị "lặn" ở thế hệ cha mẹ trở thành "trội" ở thế hệ các cháu.
9. Béo phì liên quan đến khả năng sinh sản. Có một số bằng chứng cho thấy những người béo phì thường “mắn” hơn những phụ nữ gầy còm. Nếu như béo phì thực sự có liên quan đến di truyền học thì tỉ lệ người béo phì sẽ ngày càng gia tăng trong dân số chung của nhân loại.
10. Sự “liên minh” của những cặp béo phì. Những phụ nữ béo phì thường có xu hướng kết hôn với những nam giới thừa cân. Nếu những người gầy ngày càng ít đi và béo phì thực sự là do gien quy định thì thế giới này sẽ dần là của những người béo phì, quá khổ.
Ngoài danh sách những nguyên nhân dẫn tới tình trạng béo phì kể trên còn có một số nguyên nhân khác như: virus gây béo phì, tình trạng suy dinh dưỡng khi còn nhỏ, ít sử dụng các sản phẩm sữa và những hormone từ ngành nông nghiệp biến đổi gien...
10 ĐIỀU KHUYÊN CHO NHỮNG NGƯỜI MUỐN GIẢM CÂN
Sau đây là một số nguyên tắc nên ứng dụng:
1. Xác định xem có thật sự dư cân không: bằng 2 động tác
a) Tính chỉ số thân khối BMI = cân nặng (kg)/ chiều cao2(m), nếu > 25 thì mới là dư cân.
b) Xác định số cân nên có phù hợp với chiều cao và vóc (xương) người: Lấy chỉ số R = chiều cao (cm)/ vòng cổ tay (cm).
Đối với nữ:
+Vóc vừa phải khi R = 10,1 - 11,
+ vóc nhỏ khi R = 11,1 trở lên,
+ vóc lớn khi R = 10 trở xuống,
số cân nên có cho vóc nhỏ = 19- 20 lần bình phương chiều cao, vóc vừa phải = 21 - 22,9 lần bình phương chiều cao và vóc lớn = 23 - 24,9 bình phương chiều cao.
2. Tăng số bữa ăn từ 3 bữa lên 4 - 5 bữa nhỏ: Không nên nhịn bất cứ bữa nào, vì bữa sau sẽ cảm thấy đói và ăn bù lại có khi còn quá bữa ăn đã nhịn! Đừng bao giờ để bụng rỗng, nhưng cũng đừng bao giờ ăn quá no.
3. Áp dụng hai nguyên tắc của "đồng hồ sinh học": Thứ nhất là: muốn ăn nhiều thì nên tập trung vào bữa điểm tâm - vì sẽ có dịp tiêu hao - trưa ăn vừa phải, cuối ngày thì ăn ít đi. Thứ hai là: Về chiều, cũng không nên ăn nhiều chất béo, vì không được tiêu hao, ắt sẽ được tích lũy!
4. Cần tăng mức hoạt động chân tay: Như đi bách bộ, đạp xe đạp, tập thể dục nhịp điệu, bơi lội v.v. chừng nửa giờ đến 1 giờ mỗi ngày. Cần sắp xếp sao cho những sinh hoạt này trở nên đương nhiên trong nếp sống hàng ngày như rửa mặt, đánh răng, rửa tay v.v. thì sẽ không ngại.
5. Ắn thoải mái những loại thức ăn có nhiều chất xơ: Như gạo lức (thay vì gạo trắng), ăn mỗi ngày chừng 1/2 kg rau các loại, trong đó một nửa là rau lá xanh (càng xanh đậm chừng nào càng tốt chừng nấy), nửa còn lại là các loại củ, quả, hoa, giá. nhiều màu sắc đỏ vàng càng tốt.
6. Hết sức tránh uống: nước ngọt, ăn sôcôla, bánh, kẹo ngọt làm bằng đường cát và bột mì trắng tinh luyện. Có thèm ngọt thì hãy kiếm "đường" Aspartame (đường hóa học) dùng thay thế đường cát: chất này ngọt như đường nhưng không phải là đường và không đem lại Calo nào cả.
7. Tách biệt những dưỡng chất "bài trùng" tích năng lượng dễ tăng cân: Không ăn cùng trong một bữa, một thức ăn giàu đạm (như thịt bò bít tết chẳng hạn), đi kèm với một thức ăn giàu chất bột và nhiều chất béo (như khoai tây chiên chẳng hạn). Có muốn ăn bít tết thì cứ ăn, nhưng với rau sà lách và cà chua thôi. Bữa khác, có thèm khoai tây thì ăn riêng một món này thôi.
8. Không muốn mập mỡ thì: Giới hạn mức chất béo ăn vào đừng quá hai muỗng xúp/ ngày; dùng dầu ăn (thay vì mỡ hay bơ), giảm mức tiêu thụ chất béo bằng cách: dùng sữa bột gầy (thay vì sữa còn nguyên kem), chọn mọi thứ thịt nạc (tránh thịt mỡ), ăn gà, vịt bỏ da (vì da rất béo), ăn phở nước trong (tránh nước béo).
9. Dành đủ thì giờ cho mỗi bữa ăn, khoảng nửa giờ: Tránh ăn vội vã, mỗi miếng ăn, nhai chậm rãi - trên 10 lần mỗi miếng ăn vào - để thưởng thức đến tận cùng mùi vị các món ăn.
10. Phân biệt "bạn" và "thù" trong nếp sống: Bạn: Nếp sống hài hòa, ăn có rau, trái cây tươi nhiều nước, ít ngọt, cá, thịt nạc, tàu hũ, sữa gầy, nước tinh khiết. tha hồ ăn, uống cho thỏa mãn bao tử, chống lại cảm giác đói. Ắn sạch, uống chính (uống trà xanh, trà atiso, nhân trần v.v.). Thể dục, thể thao, dưỡng sinh. Thù: Ắn nhanh, uống vội. Rượu, nước ngọt, thuốc lá, đường, kẹo, bánh ngọt, kem, thịt mỡ, sôcôla.
.Chế độ ǎn cho người béo phì:
• Giảm nǎng lượng của khẩu phần ǎn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 300 kcal so với khẩu phần ǎn trước đó cho đến khi đạt nǎng lượng tương ứng đến mức BMI.
BMI từ 25-29,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1500 kcal.
BMI từ 30-34,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1200 kcal.
BMI từ 35-39,9 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 1000 kcal.
BMI >=40 thì nǎng lượng đưa vào một ngày là 800 kcal.
Trong đó tỉ lệ nǎng lêọng giữa các chất là 15-16% protein, 12-13% lipid, 71-72% glucid.
• ǎn ít chất béo, bột.
• Đủ chất đạm, vitamin, muối khoán. Cần bổ sung viên đa vitamin và vi lượng tổng hợp.
• Tǎng cường rau và hoa quả.
• Muối, mì chính: 6g/ngày. Nếu có tǎng huyết áp thì chỉ cho 2-4g/ngày.
• Tạo thói quen ǎn uống theo đúng chế độ.
Giảm cân không cần ăn kiêng
Muốn giảm 5 kg, bạn sẽ mất ít nhất 3 tuần. Quá tình giảm cân này sẽ không thể nhanh hơn vì cơ thể cần thích nghi từ từ để tránh những ảnh hưởng đến dạ dày, huyết áp, nhịp tim.
Dưới đây là một chế độ giảm cân rất đơn giản mà hiệu nghiệm được các chuyên gia thẩm mỹ của Anh khuyên nên áp dụng cho phụ nữ tăng cân sau sinh, tăng cân do stress, do thiếu hoạt động...
1. Chỉ uống nước tinh khiết, không trà, không cà phê, không coca cola, không nước hoa quả... Nước tinh khiết không có calo, chỉ có một vài khoáng chất sẽ giúp cơ thể bạn giảm bớt mỡ thừa và lọc bỏ các chất độc hại. Nếu không có thói quen uống nhiều nước, bạn hãy bắt đầu từ từ và luôn để một chai nước nhỏ khoảng 500 ml trên bàn làm việc, trong phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ, thậm chí toilet.
Luôn bắt gặp nước ở mọi nơi sẽ nhắc nhở bạn uống nước. Việc uống nhiều nước, đặc biệt là trước khi ăn cũng sẽ giúp bạn không ngấu nghiến cả đống thức ăn hay nhấm nháp bánh kẹo lặt vặt.
2. Ăn kiêng với một vài loại thực phẩm hoặc rau quả sẽ khiến bạn thiếu chất, mất cân bằng các nguyên tố vi lượng trong cơ thể. Bạn có thể duy trì sở thích về ăn uống, ăn đủ loại thịt, cá, đường, bơ... nhưng chỉ ăn 1/2 khẩu phần thường ngày. 1/2 khẩu phần ăn với thực đơn đủ các món sẽ giúp bạn thích nghi khẩu phần ăn hơn mà vẫn giảm được 1/2 tổng lượng calo hấp thu vào cơ thể.
Ăn uống là để có sức khoẻ làm việc, vì vậy ăn kiêng quá mức, thiếu chất không phải là cách giảm cân tốt. Bởi thực tế khi bạn ăn kiêng, cơ thể sẽ phản ứng lại với lượng thức ăn bị "tước đoạt" sinh ra các thành phần hoá học trong cơ thể. Đó là lý do vì sao nhiều người ăn rất ít mà vẫn béo. Nếu bạn quá đói khi ăn 1/2 khẩu phần, hãy bắt đầu với 2/3 khẩu phần. Hãy nhớ rằng, bạn phải giữ sức khoẻ là điều trước tiên.
3. Để dạ dày của bạn thích ứng với chế độ ăn kiêng, hãy cố gắng thực hiện bài tập này hai lần một ngày:
- Ngồi thẳng lưng trên ghế, nín chặt các cơ bụng và hít vào.
- Giữ nguyên tư thế đó trong 10 giây.
- Thở ra và thả lỏng cơ bụng.
- Lặp lại các động tác 30 lần.
4. Để giảm cân, bạn nên đi bộ khoảng 45 phút đến 1 tiếng một ngày. Đi bộ với sải bước nhanh và dài sẽ giúp cải thiện cơ bắp chân rất tốt, đặc biệt là phần đùi. Tốc độ đi bộ của bạn phải nhanh hơn bình thường nhưng không được nhanh như chạy. Bạn cần để tim mình đập nhanh hơn một chút nhưng không được để tim phải chịu quá nhiều sức ép. Việc đi bộ sẽ hiệu quả hơn trong điều kiện môi trường và địa hình ở những quả đồi thoai thoải, có nhiều cây xanh, gió mát hoặc những vùng ven biển.
Bạn cần nhớ, để giữ một cơ thể khoẻ mạnh, săn chắc, tránh béo phì cần kết hợp nhuần nhuyễn cả 4 yếu tố trên. Nếu chỉ thực hiện một vài biện pháp trên thì đương nhiên hiệu quả sẽ hạn chế và không được như mong muốn.
Thực phẩm nên dùng gồm: gạo tẻ, các loại khoai, các loại đậu; các loại thịt ít mỡ, tôm, cua, cá ít béo; giò nạc, sữa chua, sữa đậu nành, sữa tách bơ; rau quả các loại; dầu mỡ ở mức 10-20g/ngày và muối, mì chính khoảng 6 g/ngày
Ngay nhóm thực phẩm nên dùng này, nên thay đổi khẩu phần theo tuần, thậm chí theo ngày nếu có điều kiện.
Thực phẩm không nên dùng gồm: mỡ, thịt nhiều mỡ, bơ; óc, tim, gan, thận, lòng; (hạn chế) đường, mật, các loại bánh, kẹo ngọt; (bỏ rượu, bia, cà phê, chè đường; và (tránh ăn) mặn, thức ăn nấu mặn.
Ngày nào cũng vậy, có thể bạn cần một lượng năng lượng bao gồm các chất dinh dưỡng nhất định như tinh đường, chất đạm, chất béo và các vitamin. Chúng đến từ thức ăn và đồ uống hàng ngày, nhưng bạn đã biết cách để phối hợp chúng một cách tốt nhất chưa? Và liều lượng mỗi chất như thế nào là có lợi cho sức khoẻ nhất?
Calories- từ 1600 đến 2800 đơn vị một ngày
Cơ thể của bạn sẽ đốt cháy tinh đường, chất đạm và chất béo thành năng lượng. Năng lượng này được tính cụ thể thành các calorie và là nguồn nhiên liệu để bạn thực hiện các hoạt động.
Lượng calorie bạn cần cho mỗi ngày phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như giới tính, độ tuổi, trọng lượng và các hoạt động thường ngày. Ví dụ, một phụ nữ đã về hưu, không phải làm gì nhiều và thường xuyên ngồi một chỗ sẽ chỉ cần 1600 calorie/ngày nhưng một cô gái 25 tuổi với công việc bận rộn phải vận động liên tục sẽ cần chừng 1800 - 2200 calorie mới đảm bảo cơ thể hoạt động bình thường và không bị thiếu chất. Dưới đây là bảng calorie cần thiết cho từng độ tuổi.
1600 calorie - trẻ em từ 2 đến 6 tuổi và người già đã về hưu
2000 calorie - người trưởng thành có công việc không quá nặng nhọc
2200 calorie - thanh thiếu niên đang phát triển cơ thể và những người phải hoạt động chân tay nhiều
2800 calorie - các vận động viên và người có yêu cầu đặc biệt về bổ sung dinh dưỡng.
Chất đạm chiếm 10-35% tổng lượng calorie
Không quá lời chút nào nếu khẳng định chất đạm (protein) là thành phần cơ bản tạo nên sự sống vì mọi tế bào trong cơ thể bạn đều chứa nó. Da, xương, cơ thịt và các cơ quan nội tạng đều có thành phần cấu tạo chính là chất đạm. Nó cũng có thể tìm thấy trong máu, hoocmon và các enzym.
Chất đạm có thể được tìm thấy dễ dàng trong nhiều loại thức ăn khác nhau. Cây thuộc họ đậu, gia cầm, hải sản, thịt lợn, thịt bò, các sản phẩm chế biến từ sữa, tinh bột... đều rất giàu chất đạm. Tuy nhiên, bạn cũng nên cẩn thận với những thức ăn giàu chất đạm, đừng ăn chúng quá nhiều vì một món ăn giàu chất đạm bao nhiêu thì cũng nhiều chất béo và cholesterol bấy nhiêu.
Lượng đạm phù hợp với cơ thể bạn phụ thuộc vào chính trọng lượng của bạn. Ví dụ: Một phụ nữ nặng chừng 50-55kg sẽ cần 51 g chất đạm mỗi ngày, một phụ nữ nặng khoảng 55 tới 60kg lại cần tới 64gr. Hoặc nói cách khác, bạn có thể tính theo một tỷ lệ trung bình: Với mỗi kg trọng lượng bạn sẽ cần 0,8kg chất đạm để cơ thể không bị đói.
Tinh đường (carbohydrate) - chiếm 45 đến 65% tổng lượng calorie
Tinh đường là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho bạn, là nhiên liệu để các cơ quan hoạt động trơn tru không gặp trục trặc gì. Tinh đường chính là tinh bột và chất đường. Tinh bột có nhiều trong bột mì, gạo, mì sợi, ngũ cốc và một số loại củ quả như khoai tây, khoai lang... Chất đường thì lại xuất hiện trong hoa quả, các thực phẩm chế biến có vị ngọt như bơ sữa, kem, bánh ngọt...
Chiếm tới 45-65% tổng lượng calorie hàng ngày của bạn có nghĩa là bạn phải hấp thụ chừng 130g trong 3 bữa ăn. Lý do vì thời gian cơ thể bạn hấp thu tinh đường tổng hợp lâu hơn đường tinh chế, cho nên bạn sẽ mất nhiều năng lượng hơn cho việc này và kh ả năng bị lên cân cũng ít hơn. Ngoài ra hoa quả và sữa tươi đương nhiên cũng bổ dưỡng hơn các loại bánh kẹo. Những thức ăn đã qua chế biến thường chứa khá nhiều calorie mà lại có ít vitamin và khoáng chất.
Chất béo - chiếm 20-35% tổng lượng calorie
Không giống như đạm và tinh đường, chất béo cũng là một dạng năng lượng như có thêm nước. Chất béo có chứa một số vitamin quan trọng, giúp cho các cơ quan nội tạng vững chắc hơn và còn làm hệ miễn dịch hoạt động hiệu quả hơn. Nhưng quá nhiều chất béo lại không tốt chút nào, chúng sẽ làm bạn tăng cân, béo phí và kèm theo đó là các bệnh nguy hiểm như bệnh tim, mỡ trong máu...
Cholesterol - không được phép hơn 300 miligrams mỗi ngày
Ai cũng biết tỷ lệ cholesterol cao rất nguy hiểm cho sức khoẻ nhưng cơ thể cũng có thể thiếu chúng. Đơn giản vì những thức ăn hàng ngày như tất cả các loại thịt, sản phẩm chế biến từ bơ sữa, nước có ga... luôn chứa một lượng cholesterol khá cao. Việc cần làm hiện nay là bạn phải hạn chế những món ăn này, thay vào đó bằng các loại chứa rất ít hoặc không có cholesterol như dầu thực vật, rau xanh, trái cây...
(Hàm lượng Cholesterol trong 100g thực phẩm ăn được)
Thức ăn động vật
Tên thực phẩm Cholesterol (mg) Tên thực phẩm Cholesterol (mg)
1. Lòng đỏ trứng gà 1790 19. Thịt cừu 78
2. Trứng gà 600 20. Thịt vịt 76
3. Gan gà 440 21. Thịt ngựa 75
4. Phó mát 406 22. Thịt bê (mỡ) 71
5. Cật heo 375 23. Cá chép 70
6. Gan heo 300 24. Dăm bông thịt heo 70
7. Bơ 270 25. Thịt hộp xay 66
8. Tôm đồng 200 26. Sườn heo (bỏ xương) 66
9. Bánh chocolate 172 27. Thịt thỏ 65
10. Tim heo 140 28. Giò heo (bỏ xương) 60
11. Thịt gà hộp 120 29. Thịt bò 59
12. Sữa bột toàn phần 109 30. Cá hộp 52
13. Lưỡi bò 108 31. Bánh bích quy 42
14. Bao tử bò 95 32. Sữa đặc có đường 32
15. Mỡ heo (nước) 95 33. Sữa bột không béo 26
16. Thịt bò hộp 85 34. Bánh kem xốp 22
17. Thịt gà tây 81 35. Sữa bò tươi 13
18. Thịt ngỗng 80 36. Sữa chua 8
Ngoài ra, các mô hoà tan có thể giúp bạn giảm bớt cholesterol và kiểm soát lượng đường trong máu. Bạn có thể tìm thấy chất này trong yến mạch, đậu khô và một số loại trái cây như táo, cam, dâu tây và nho.
8 thói quen hại sức khỏe sau bữa ăn
|
|
Nhiều quý ông sau khi ăn quá no, do cảm thấy tức bụng, nên đã nới lỏng dây thắt lưng. Tuy cảm thấy dễ chịu nhưng việc này sẽ làm cho bụng bạn xệ xuống, ép dạ dày xuống dưới và thường xuyên làm vậy sẽ dẫn đến bệnh sa dạ dày.
Đây chỉ là một trong những thói quen có hại cho sức khỏe mà bạn nên tránh.
Ăn hoa quả
Nhiều người hay dùng hoa quả sau khi ăn cơm mà không biết đây là một thói quen không tốt. Sau khi thức ăn vào đến dạ dày, phải mất một - hai tiếng mới tiêu hóa được. Nếu vừa ăn cơm xong đã "tráng miệng" ngay thì loại trái cây vừa dùng sẽ bị các thức ăn trước đó ngăn lại, khiến không tiêu hóa được. Hậu quả là bạn sẽ bị đầy bụng, táo bón...
Uống nước trà đậm
Vừa ăn cơm xong đã uống nước sẽ làm loãng dung dịch dạ dày, ảnh hưởng đến việc tiêu hóa. Ngoài ra, nếu uống nước trà ngay còn ảnh hưởng đến việc hấp thu nguyên tố sắt và khi bạn làm như vậy thường xuyên có thể gây ra thiếu máu do thiếu chất sắt.
Hút thuốc lá
Hút thuốc lá khi vừa ăn cơm xong gây nguy hại gấp 11 lần lúc bình thường. Lý do: sau bữa ăn, sự tuần hoàn máu của đường tiêu hóa tăng lên, khiến cơ thể hấp thu một lượng lớn chất độc hại của thuốc lá, gây tổn hại gan, não và mạch máu cơ tim.
Tắm
Sau khi ăn no nếu bạn đi tắm sẽ khiến lượng máu lưu thông dưới da tăng lên, làm giảm bớt lượng máu trong đường tiêu hóa, gây suy giảm chức năng của hệ thống này, dẫn đến rối loạn tiêu hóa.
Rèn luyện sức khỏe
Ăn xong đi bách bộ không những không có lợi cho sức khỏe mà còn gây ảnh hưởng cho việc hấp thu dinh dưỡng. Ở người già, chức năng của tim yếu, xơ cứng mạch máu nên sau khi ăn, đi bách bộ sẽ xuất hiện hiện tượng hạ huyết áp...
Hát karaoke
Sau khi ăn no, dạ dày sẽ giãn ra, khiến cho vách dạ dày mỏng hơn lúc đói, lượng máu lưu thông tăng lên. Hát vào lúc này sẽ khiến cho niêm mạc dạ dày xệ xuống, sức nén tăng lên, nhẹ thì rối loạn tiêu hóa, nặng thì sẽ dẫn đến đau, tức bụng...
Lái xe
Nếu vừa ăn no, lái xe rất dễ gây tai nạn. Bởi lúc này cơ thể cần có lượng máu lớn để tiêu hóa thức ăn, khiến não tạm thời bị thiếu máu, làm người lái xe thao tác không được bình thường.